Khách du lịch khi đến với Bắc Giang ngoài chiêm ngưỡng phong cảnh thiên nhiên khoáng đạt, tìm hiểu lịch sử và các sản phẩm văn hoá nghệ thuật của các dân tộc thì việc thưởng thức các món ăn ngon ở Bắc Giang, tìm hiểu về ẩm thực của vùng đất này cũng là một phần quan trọng. Sản phẩm của văn hoá ẩm thực Bắc Giang có thể chia thành các nhóm.
Trong đó, nhóm món ăn được chế biến trong lễ hội đình, chùa thường không sử dụng trong dịch vụ du lịch mà mang tính thiêng liêng, trang trọng dùng để cúng. Nhóm các món ăn đặc trưng của từng dân tộc sử dụng trong dịp lễ, Tết và đặc biệt được giới thiệu trong cuộc thi ẩm thực. Cuối cùng là nhóm các món ẩm thực qua chế biến, được bán rộng rãi và đã tạo được thương hiệu như: Mỳ Chũ, bánh đa Kế, bún Đa Mai, rượu làng Vân, nem Thổ Hà, nem chua Lim, vải thiều khô Lục Ngạn, rượu Kiên Thành… Hãy cùng RuudNguyen.com tìm hiểu các món ăn ngon tại nơi này nhé.
Các món ăn ngon và đặc sản Bắc Giang
Vải thiều Lục Ngạn
Vải thiều Lục Ngạn vốn có nguồn gốc từ Thanh Hà (Hải Dương), nhưng từ khi bén duyên với đất đồi Lục Ngạn – một mảnh đất có tiểu vùng khí hậu đặc trưng riêng và được người dân nơi đây chăm sóc, vun trồng với những quy trình kỹ thuật đầy sáng tạo nên quả vải thiều đã có bước tiến mới về chất “như ngọc được mài”.
Vải thiều là một trong các đặc sản nổi tiếng của Bắc Giang (Ảnh: BGTV)
Điều đó đã tạo nên thương hiệu vải thiều Lục Ngạn – một sản phẩm đặc sản có những hương vị thơm ngon riêng biệt mà không nơi nào có được.
Bánh đa Thổ Hà
Bánh đa Thổ Hà có 2 loại: bánh đa vừng và bánh đa dừa, mà đặc sản là loại bánh đa dừa ngọt cao cấp. Để làm bánh đa dừa rất công phu, ngay từ việc chọn nguyên liệu. Đầu tiên, gạo làm bánh đa dừa phải là loại gạo ngon, vừng trắng được đãi kỹ, không sạn. Lạc chọn loại già, nhân to, mẩy, dừa già, cùi dày, và sau cùng là đường kính hoặc đường phên.
Những chiếc bánh đa Thổ Hà (Ảnh sưu tầm)
Trước tiên, người ta ngâm gạo 1-2 tiếng để ráo nước, sau đó đổ vào cối xay, vừa xay vừa đổ nước, để nước có độ vừa phải không loãng mà cũng không đặc quá. Sau đó lọc bột bằng vải. Trước khi tráng, người ta đun chảy đường hòa với bột cho đều. Các nguyên liệu khác được sơ chế như sau: Vừng đem ngâm, xát vỏ; Lạc nhân thái thật mỏng sau đó xẩy sạch vỏ; Dừa nạo sợi dài, mỏng. Cuối cùng là công đoạn tráng bánh.
Người làm bánh đa ở đây không phải đem bán mà đều có người đến lấy tận nhà. Bánh đa Thổ Hà đã theo chân thương lái đến nhiều tỉnh thành như Hà Nội, Quảng Ninh, Bắc Ninh, như một món quà của ngôi làng ven sông Cầu thơ mộng.
Bánh đa Kế
Bánh đa Kế là một món ăn bình dị, dân dã, chứa đựng trong đó bao hương vị, đậm đà quê Bắc Giang. Những chiếc bánh đa với hình yên ngựa vàng bóng, vị thơm, béo của vừng đen, vị bùi bùi của lạc, vị thơm nhè nhẹ của gạo hòa lẫn với khoai lang, vị đậm đà của muối tinh.
Bánh đa Kế (Ảnh sưu tầm)
Điểm đặc biệt dễ nhận ra ở bánh đa Kế chính là lớp vừng lạc ở bên trên. Do đó, trước khi đem bánh ra phơi, người làng Kế thường rắc rắc một lượt vừng đen cùng lạc sống giã giập lên mặt bánh còn bốc hơi nóng hổi. Tuy nhiên, không phải rắc thế nào cũng được. Lạc vừng rắc phải đảm bảo trải đều trên mặt bánh, nhưng tập trung ở phần tâm để khi nướng lạc vừng chín tới. Điều này không những giúp bánh đa Kế ăn vừa miệng mà còn vừa mắt người ăn.
Gọi là bánh đa Kế bởi món bánh này được làm ở làng Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang. Xưa kia, bánh đa Kế chỉ là món ăn dân dã ở vùng thôn quê. Khi ăn những chiếc bánh đa có vị bùi, ngọt, giòn và thơm lừng. Thưởng thức món quà quê dân giã ấy là trải nghiệm một phần văn hóa trong đó mà theo như người Dĩnh Kế, đó là thưởng thức một loại hình ẩm thực truyền thống
Nham Vân Xuyên
Nguyên liệu chính để làm Nham gồm: Trám đen nấu bỏ hạt lấy cùi; thịt ba chỉ áp chảo thái chỉ; thịt cá sông (đánh bắt từ sông Cầu) nướng. Ba thứ đó theo tỉ lệ 1:1:1, đem trộn với gia vị như lạc rang, quả núc nác nướng, rau thơm, khế chua, nêm mắm muối vừa đủ.
Món ăn nham cá của người Hiệp Hòa, Bắc Giang (Ảnh sưu tầm)
Cách làm như sau: Trám đen (đã om chín và ngâm trong nước muối loãng) dã nhỏ; thịt ba chỉ áp chảo thái chỉ; cá nướng gỡ xương lấy thịt, rau mùi gai, húng quế, tía tô, khế chua thái nhỏ, đặc biệt không thể thiếu lá gừng tươi và lá hẹ thái nhỏ, tất cả trộn đều và rắc thêm vừng hoặc lạc rang giã rối… khi ăn dùng bánh đa nem cuốn ngoài.
Thưởng thức đặc sản này, thực khách sẽ cảm nhận được vị bùi, béo của trám đen; ngọt đậm của cá và hương thơm của các loại gia vị rau thơm, vừng, lạc… tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên hương vị đặc trưng rất lạ, khó quên.
Gỏi cá mè Hiệp Hòa
Gỏi cá mè (Ảnh sưu tầm)
Khi ăn, món thịt, xương cá đã thấm khô dùng thính gạo rang hoặc bánh đa quê giã nhỏ như bột xay, riềng giã mục trộn vào cá cho thơm mới bày ra đĩa khi ăn dùng lá mơ to hoặc lá sung để gói. Cá được đặt vào lá, xúc một ít hạt (1 cùi rìa con) muối ớt, tỏi vừa vặn và các loại lá khác, tùy mỗi miếng và sở thích của mỗi người mà dùng loại lá để cùng ăn với gỏi. Miếng gỏi như vậy thì chỉ thấy mùi thơm, không hề thấy có mùi tanh mặc dù là cá Mè ranh. Tất cả các loại lá, hạt, gia vị làm cho gỏi cá có mùi vị đặc trưng, chỉ có ăn mới cảm nhận hết cái mùi vị thơm ngon, bùi…rất thanh tao của món gỏi cá.
Chè đỗ đãi Mỹ Độ (Chè kho)
Chè đỗ đãi Mỹ Độ có màu vàng hơi sậm – màu của đỗ với những hạt vừng tấm trắng rang thơm được rắc lên mặt đĩa chè như là vì sao sa. Hương đậu xanh, hương vừng, vị ngọt thanh của đường kính, vị béo thoang thoảng của mỡ, chất đậm đà của đậu xanh hòa quyện vào nhau. Ăn một miếng chè đỗ đãi ta thấy cái cảm giác thật khó tả: vị ngòn ngọt tan từ từ trong miệng.
Món chè kho Mỹ Độ (Ảnh sưu tầm)
Chè kho Mỹ Độ tuy dân dã nhưng ai đã một lần được thưởng thức đều khó quên bởi hương vị đậm đà, thanh mát. Chè có màu vàng óng – màu của đỗ với những hạt vừng tấm trắng rang thơm được rắc lên mặt đĩa. Hương đậu xanh, hạt vừng, vị ngọt thanh của đường kính, chất đậm đà của đậu xanh hòa quyện vào nhau đã tạo nên sự đặc trưng cho món ăn.
Bánh coóc mò
Bánh coóc mò thường được dân tộc Tày, nhất là ở huyện vùng cao Sơn Động ưa thích trong ngày Tết Nguyên đán. Xưa, bánh được gọi là bánh sừng bò, vì có các góc nhọn trông giống sừng của con bò; nay gọi chệch là bánh coóc mò.
Bánh coóc mò (Ảnh sưu tầm)
Bánh coóc mò dân dã, nhưng ẩn sau đó là biểu trưng sức mạnh của tình đoàn kết, luôn sát cánh bên nhau, là ước nguyện về một năm mới bội thu, sung túc của đồng bào dân tộc vùng cao.
Bánh gio Hiệp Hòa
Cơm đồng Chóa, cá đồng Ưa, cua đồng Chùn… những câu phương ngôn, cùng những câu ca, ngạn ngữ: “Hành Nga Trại, cải Tiếu Mai – Lý Viên gỏi cá, bánh đa kẻ xà”; “Rền gai vỏ quýt, vỏ bòng – dành dành, núc nác đốt làm bánh gio”… truyền mãi trong dân gian, ghi vào sử sách nói về đặc sản quê tôi, những món ăn dân dã mà bất cứ ai đã thưởng thức một lần là nhớ mãi.
Bánh gio Hiệp Hòa, Bắc Giang (Ảnh: Trithuchay.com)
Lá gói bánh gio thường là lá dong, lá tươi sẽ nhanh chuyển màu và có mùi nếu để lâu, nên người ta dùng lá dong phơi khô, khi gói ngâm nước cho mềm, mỗi lá gói một bánh dài khoảng 20 phân, to hơn ngón chân cái. Luộc bánh bằng củi là tốt nhất, khi luộc nồi bánh phải ngập nước, nếu nước cạn lại đổ them nước, đun sôi khoản 20 phút bắc ra khỏi bếp ngâm đến khi nước nguội thì vớt bánh.
Để bánh có màu đẹp, khi luộc cho ít măng khô hay quả dành dành thì bánh sẽ trong và màu vàng óng. Bánh gio vừa mềm, vừa dẻo, gấp như gấp lạt mà không gãy, cầm một đầu lẳng đi lẳng lại cứ dẻo quẹo, nên dân gian còn gọi bánh gio là bánh “lẳng”. Ngày tết, ngày hội, đám cưới,… ăn nhiều thứ dễ sinh trướng bụng, đầy hơi, món bánh gio ăn mát, lành sẽ làm ta dễ chịu, nhuận tràng, tiêu hóa tốt. Vì thế bánh gio vừa là món ăn ngon, vừa là vị thuốc nam, món ẩm thực đặc sản của cùng quê luôn được mọi người ưa chuộng cùng với mật mía mật ong.
Cua Da
Cua Da Yên Dũng (Ảnh sưu tầm)
Huyện Yên Dũng (Bắc Giang) có đặc sản nức tiếng khiến ai một lần thưởng thức sẽ nhớ mãi, đó là cua Da. Theo lý giải của người dân Yên Dũng, sở dĩ gọi là cua Da vì chúng có lớp da trên càng, cũng có người gọi là “cua ra” vì gắn với câu tục ngữ “Tháng Chín cua ra, tháng Ba cua vào”, song cua Da vẫn được gọi phổ biến hơn cả. Loại cua này sống chủ yếu trong các ghềnh đá dọc sông Thương và một phần sông Cầu chảy qua địa phận các xã: Đồng Việt, Đồng Phúc, Đức Giang, Thắng Cương…
Để “săn” được cua Da, những cư dân miền sông nước phải lao động vất vả, nhọc nhằn, đặc biệt phải hiểu đặc tính, môi trường sống của chúng. Về Yên Dũng những ngày này, trong tiết trời cuối thu se lạnh, du khách không những được thỏa sức tham quan, vãn cảnh những danh lam nổi tiếng trên đất Phượng Hoàng mà còn được thưởng thức món cua Da vô cùng hấp dẫn.
Mỳ Chũ
Hiện tại ở Bắc Giang có rất nhiều nơi sản xuất mỳ gạo nhưng riêng Mỳ Chũ của Lục Ngạn lại có chỗ đứng riêng trong lòng người tiêu dùng khắp trong và ngoài nước. Mỳ Chũ Bắc Giang nổi tiếng nhờ sợi mỳ dai, mềm lại không nát. Khi hòa quyện vào nước dùng mỳ Chũ trở nên bóng với màu trăng đục đặc trưng cùng vị dai dai ngọt bùi của gạo ngon.
Mỳ gạo Chũ (Ảnh sưu tầm)
Mỳ Chũ Bắc Giang ngon nổi tiếng nhờ được làm từ thứ gạo đồi của vùng Chũ có tên là gạo bao thai hồng. Gạo được trồng ở vùng núi nên có vị đậm đà, dẻo dai vượt xa các loại gạo khác ở đồng bằng.
Mỳ Chũ có thể chế biến tùy theo sở thích của người ăn, rất thích hợp cho những người sành ăn lẩu, mỳ xào bò hay bát mỳ thịt lợn,… và tặng bạn bè, người thân. Hơn nữa, mỳ Chũ Bắc Giang hoàn toàn không dùng các chất bảo quản, chất phụ gia an toàn với sức khỏe con người
Rượu Làng Vân
Rượu làng Vân (Ảnh: poliva.vn)
Làng Vân (hay gọi đủ là Vạn Vân) có tên chữ là Yên Viên, nằm ở phía Bắc của xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Làng nằm dọc tả ngạn sông Cầu, trải dài hơn 1km, đối diện với làng Đại Lâm ở bên kia sông. Mặc dù là vùng quê yên bình mang nhiều nét đặc trưng của làng quê Bắc Bộ nhưng Vân Hà có nét rất riêng, đó là người dân không có ruộng.
Làng Vân và rượu làng Vân Bắc Giang có tự bao giờ, khó mà có câu trả lời chính xác, bởi thần phả, tộc phả đã bị chiến tranh tàn phá và tiêu hủy cả.
Chỉ biết rằng, dân làng Vân xưa nay vẫn thờ bà “Tổ nghiệp” là bà Nghi Định. Bà mang nghề nấu rượu từ Trung Hoa về truyền dạy lại cho dân làng Vạn Vân, làm nên danh tiếng rượu làng Vân.
Kể từ đó trong làng cũng hình thành cái lệ là cứ mùng 4 Tết Nguyên Đán, mỗi nhà phải cử một người ra chùa Rộc uống máu ăn thề, nguyền phải giữ bí quyết nghề tổ, không được truyền cho người ngoài làng, kể cả con gái.
Bánh vắt vai
Bánh vắt vai (Ảnh: thegioiamthuc.com)
Bánh vắt vai được làm từ gạo nếp cái hoa vàng nổi tiếng, có vị thơm ngon, ngọt bùi là món ăn dân dã của người Cao Lan ở Bắc Giang. Không phải gạo nếp nào cũng làm được bánh ngon mà phải là nếp Phì Điền nổi tiếng ở huyện Lục Ngạn. Nhờ chất đất và khí hậu đặc trưng, nếp cái hoa vàng Phì Điền có vị dẻo, hương thơm.
Bánh vắt vai có vị của đậu xanh, vị ngọt của đường, bùi của gạo nếp và chút hương ngai ngái của ngải cứu khiến món bánh trở nên đậm đà, quyến rũ. Đến Lục Ngạn vào mùa tháng 3 âm lịch hay dịp gần Tết, bạn sẽ dễ dàng tìm mua bánh trong các chợ quê hoặc được người Cao Lan mời ăn trong mỗi dịp lễ hội.
Bánh hút Lục Ngạn
Bánh Hút Lục Ngạn (Ảnh sưu tầm)
Bánh Hút Lục Ngạn cũng dân dã và giản dị như chính cái tên của nó. Bánh được làm từ những nguyên liệu của miền quê như rau cải cay, gạo nếp, mật mía. Rau cải cay rửa sạch giã nhỏ lấy nước rồi đem nhào với gạo nếp sau đó thả vào chảo dầu chiên. Xong công đoạn chiên thì người làm bánh vớt ra và bỏ ngay vào nồi mật mía, viên bánh hút mật mía căng tròn lên nhìn rất đẹp mắt.
Thường người dân Lục Ngạn chỉ làm bánh vào những ngày Tết để tiếp khách và tặng biếu người thân. Và nếu hiểu được ý nghĩa của loại bánh này chúng ta sẽ càng cảm nhận được hương vị thơm ngon của nó bởi bánh như một niềm tin bao bọc che chở của vỏ, tuy mỏng nhưng không bao giờ để mật chảy ra ngoài.
Bánh đúc Đồng Quan
Bánh đúc làng Đồng Quan (Ảnh: thegioiamthuc.com)
Là một loại bánh được làm từ bột gạo và lạc, bánh đúc có mặt hầu hết ở các làng quê Việt Nam, tuy nhiên hương vị mỗi vùng đều khác nhau và để trở thành một thứ đặc sản mang một hương vị khó quên thì không phải nơi nào cũng có được.Thôn Đồng Quan có nghề làm bánh đúc gia truyền từ lâu đời và cho đến nay bánh đúc làng Đồng Quan đã đạt đến trình độ tinh tế.
Tuy làm từ những nguyên liệu đơn giản nhưng để cho ra những mẻ bánh đúc ngon và mang một hương vị đặc trưng riêng, bà con nơi đây phải chọn lọc kỹ càng từ nguyên liệu, tỉ mỉ từng khâu chế biến. Bánh mang vị lạc, nồng nhẹ của mùi vôi và theo anh bạn quê Đồng Sơn thì có thể kết hợp ăn với nhiều thứ, từ mật đến riêu cua, mắm tôm… nhưng hợp nhất và ngon nhất có lẽ chỉ có tương bần.
Tương La
Tương La Bắc Giang (Ảnh sưu tầm)
Theo kinh nghiệm được lưu truyền ở Trí Yên, để làm được một mẻ tương như ý và đúng với kỹ thuật xưa cần trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp. Nguyên liệu làm tương La không thể thay thế được chính là gạo nếp cái hoa vàng và đậu (đỗ) tương hạt nhỏ.
Theo kinh nghiệm, mốc lên đều, ngả màu hoa cau, hoa thiên lý là đạt chất lượng. Mốc hỏng có màu đen hoặc màu đỏ. Tiếp đến cứ trộn đều mốc đến khi nào nắm mốc héo lại như nắm cơm chim, đặt cạnh nhau mà không dính vào nhau là được.
Có một điều khó lý giải được, mà chỉ dựa theo kinh nghiệm dân gian, đó là không phải chum vại nào dùng để đựng cũng cho ra những mẻ tương như ý, do đó việc chọn chum vại luôn được chú trọng. Ngoài chứa đựng yếu tố vật thể, tương La còn chứa đựng những nét văn hóa ẩm thực mang tính phi vật thể, đó là những tri thức, bí quyết, sự tài hoa trong chế biến của người xưa.
Chè Bát Tiên Sơn Động
Chè Bát Tiên (Ảnh sưu tầm)
Từ trước đến nay, người dân Việt Nam đã quen với cái tên chè Thái Nguyên, chè Shan tuyết Suối Giàng. Mấy ai biết rằng, trên đất Sơn Động, Bắc Giang cũng có một loại chè thơm ngon không kém, có tên là Bát Tiên.
Chè Bát Tiên có nguồn gốc từ Đài Loan được nhập nội và trồng thành công ở một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Do điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp nên sau thời gian kiến thiết của cây, sản phẩm trè Bát Tiên Thanh Sơn đã có mặt trên thị trường và ngày càng nổi tiếng bởi hương vị đặc trưng mùi thơm hoa nhài, chỉ cần uống một lần là nhớ mãi. Sở dĩ chè Bát Tiên có giá cao hơn là do chè có mùi vị thơm ngon, có tác dụng thanh nhiệt, đặc biệt chè Bát Tiên không có lắng cặn và không làm mốc, ố, hay vàng ấm chén cho nên được thì trường ưa chuộng.
Bún Đa Mai
Bún Đa Mai (Ảnh sưu tầm)
Bún Đa Mai chính là sản phẩm “bún” được làm ở phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Bún có sợi dẻo, ăn mát, bổ, để cả ngày không chua lại trắng muốt như bột lọc. Sản phẩm bún Đa Mai nổi tiếng từ lâu đời và ngày càng phát triển với chất lượng cao. Bún Đa Mai có sợi dẻo, ăn mát, bổ để cả ngày không chua lại trắng muốt như bột lọc. Bún Đa Mai có 4 sản phẩm chính, đó là: bún rối, bún vẩy ốc, bún con ba, bún vẩy (còn gọi là bún lá).
Bún vẩy ốc và bún con ba thường chỉ được chế biến khi dân làng có hội hè, hoặc có người đặt riêng. Bún rối và bún lá thì là những sản phẩm luôn luôn được chế biến và tiêu thụ hàng ngày. Bún là món ăn dân dã thích hợp với khẩu vị của nhiều người. Từ sản phẩm bún, mọi người có thể chế biến ra nhiều món ẩm thực vô cùng hấp dẫn, như: bún riêu cua, bún ốc, bún cá, bún ngan, bún vịt, bún măng, bún chân giò, bún thịt chó, bún chả, bún chấm nước mắm cà cuống, bún chấm mắm tôm, bún đậu, bún nem, nộm bún…
Gà đồi Yên Thế
Gà đồi Yên Thế là một giống gà bản địa của Việt Nam ở vùng Yên Thế thuộc Bắc Giang. Đây là giống gà lai tạo của địa phương được nuôi theo hình thức chăn thả ở đồi, các giống gà này gọi chung với thương hiệu sản phẩm là gà đồi Yên Thế.
Gà đồi Yên Thế (Ảnh sưu tầm)
Mật ong rừng Yên Thế
Mật ong hoa rừng Yên Thế được chiết xuất từ những tổ ong nuôi trong rừng. Với vị ngọt tinh khiết, mang mùi đặc trưng của hoa rừng. Mật ong hoa rừng Yên Thế sánh, sạch, thơm tinh khiết. Sản phẩm chiết xuất tự nhiên, không pha tạp chất hay hóa chất bảo quản. Phát triển nghề nuôi ong và xây dựng thương hiệu Mật ong hoa rừng Yên Thế theo tiêu chuẩn sạch, tự nhiên là một trong những chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của huyện Yên Thế.
Chè xanh Yên Thế
Chè xanh Yên Thế (Ảnh sưu tầm)
Yên Thế là một trong 4 huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang. Với điều kiện thuận lợi về đất đai, thổ nhưỡng, tiểu vùng khí hậu phù hợp với sự phát triển của cây chè, đây là vùng chè lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Là huyện có địa hình đồi núi thấp, điều kiện đất đai, khí hậu phù hợp nên cây chè được trồng trên đất Yên Thế sinh trưởng mạnh, nước chè thơm và ngon.
Gạo nếp Phì Điền
Trải qua khoảng thời gian dài kể từ khi giống lúa nếp cái hoa vàng di thực về xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn vào những năm 80 của thế kỷ trước, từ những diện tích đầu tiên được trồng tại thôn Mai Tô. Chỉ sau vài vụ thâm canh, giống lúa này đã dần thích nghi với vùng đất Phì Điền.
Gạo nếp Phì Điền (Ảnh: voso.vn)
Nhận thấy loại gạo rất thơm, ngon, nhiều hộ dân đã nhân rộng và cùng gieo cấy… Khi nhận được sự ưa chuộng từ thị trường, càng ngày giống gạo này lên hương trên vùng đất khó khăn Phì Điền, trở thành một lại cây hàng hóa, mang lại giá trị kinh tế cao cho bà con nơi đây.
Cam Bố Hạ
Cam Bố Hạ là loại cam sành thường được làm quà tặng, quà biếu vào đúng dịp gần Tết Nguyên đán. Cam có vị ngọt, thơm và rất mọng nước. Loại cam này được trồng rất nhiều ở Bắc Giang, đến tháng Mười hai âm lịch hằng năm rất nhiều người, nhiều thương nhân, lái buôn đã đổ về khắp chợ Bố Hạ để thu mua loại cam này. Cam Bố Hạ là một trong những đặc sản trái cây nổi tiếng của Bắc Giang.
Cam Bố Hạ (Ảnh sưu tầm)
Sự hấp dẫn đặc biệt của loại cam này là mùi thơm đặc trưng, vị ngọt đậm, tép to mọng nước, ruột vàng cùng hàm lượng chất xơ, Vitamin C, chất chống oxy hóa cao cùng nhiều khoáng chất thiết yếu khác như Canxi, Kali, Sắt, Phốt pho rất tốt cho sức đề kháng, hệ miễn dịch, giảm cholesterol, chống viêm nhiễm,… Sản phẩm được trồng theo phương pháp hữu cơ, không có dư lượng chất bảo vệ thực vật, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Bắc Giang
Discussion about this post