Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở vùng Đông Bắc, phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc), đường biên giới dài trên 333 km, phía Tây giáp 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, phía Nam giáp 2 tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn. Được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những nét hoang sơ vô cùng kỳ thú với núi rừng hùng vĩ. Đến với Cao Bằng, ngoài không khí trong lành, cảnh sắc đẹp như tranh vẽ và ẩm thực siêu ngon, bạn còn có cơ hội được tiếp xúc và trải nghiệm độc đáo về văn hoá của vùng đất Tây Bắc này. Hãy để RuudNguyen.com chia sẻ tới bạn các địa điểm du lịch và các món đặc sản tại Cao Bằng nhé.
Thiên nhiên đã tạo cho Cao Bằng nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Thác Bản Giốc, động Ngao huyện Trùng Khánh; hồ Thang Hen huyện Trà Lĩnh… Cao Bằng là nơi có nhiều khu di tích lịch sử tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh giữ nước, bảo vệ nền độc lập tự do dân tộc như hai di tích Quốc gia đặc biệt: Khu di tích lịch sử Pác Bó huyện Hà Quảng, Rừng Trần Hưng Đạo huyện Nguyên Bình; khu di tích Lam Sơn huyện Hoà An, di tích Đông Khê – Đức Long huyện Thạch An… gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Lịch sử tỉnh Cao Bằng
Đến thời nhà Mạc (1592 – 1677) lên Cao Bằng, đóng đô ở Cao Bình (nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng) đặt hiệu là Càn Thống, quản lý cả các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.Từ thời kỳ đầu dựng nước, vùng Cao Bằng đã có cư trú của người Việt cổ, minh chứng là qua các di chỉ khảo cổ, di tích đã được khai quật ở Hồng Việt, (Hòa An), Cần Yên (Thông Nông), Lũng Ỏ (Quảng Uyên)… cùng truyền thuyết về Pú Luông – Giả Cải, Cẩu chủa cheng vùa.
Thác Bản Giốc (Ảnh sưu tầm)
Nên đi du lịch Cao Bằng vào thời gian nào?
Mỗi mùa ở Cao Bằng luôn mang một vẻ đẹp riêng. Cho nên mới nói, dù bạn lựa chọn đi du lịch Cao Bằng vào bất cứ thời điểm nào mùa nào trong năm ít nhiều cũng đều cảm nhận được những điều mới mẻ và vô cùng đặc biệt ở mảnh đất này.
Hướng dẫn đi tới Cao Bằng
Cao Bằng có địa hình tương đối phức tạp. Hệ thống giao thông hiện nay chỉ có đường bộ, gồm bốn tuyến quốc lộ: 3, 4A, 34 và 4C trong đó có quốc lộ 3 và quốc lộ 4 đã được cải tạo, nâng cấp. Đến nay, hệ thống giao thông tạm đáp ứng tốt các nhu cầu vận tải hành khách.
Phương tiện cá nhân
– Đi bằng xe máy: Nếu bạn là người ưa thích trải nghiệm và khám phá thì hãy chọn cung đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên nhé. Đường khá đẹp với các cảnh quan như Tuyệt tình Cốc, Hồ Thanh Hen hay chinh phục Núi Phja Oắc … Tuy nhiên đường lên Cao Bằng có khá nhiều đèo dốc quanh co và có nhiều xe tải cỡ lớn, nên bạn cùng không nên mạo hiểm bằng xe máy nếu như không có một người bạn đồng hành dày dặn kinh nghiệm cùng đi. Mình cũng chia sẻ thêm rằng đoạn đường qua những con đèo này khá là nguy hiểm nên sẽ cần nhiều người đi cùng và tuyệt đối bạn đừng bao giờ lấn đường để giữ an toàn trong hành trình của mình.
Phương tiện công cộng
– Đi bằng xe khách: Thường sẽ mất khoảng 5h để đi từ Hà Nội lên Cao Bằng. Các bạn có thể lựa chọn đi xe ghế ngồi hoặc giường nằm nha.
Lưu trú ở Cao Bằng
Khách sạn nhà nghỉ ở Cao Bằng
Tuy là một tỉnh vùng núi xa xôi, nhưng các nhà nghỉ, khách sạn ở Cao Bằng đều khá chất lượng và rất tiện nghi. Đa phần thường tập trung chủ yếu ở trung tâm thành phố, và giá phòng lại tương đối rẻ. Tuy nhiên, kinh nghiệm du lịch Cao Bằng, để có thể vừa giúp bạn chủ động trong tour du lịch vừa tiết kiệm chi phí cho chuyến đi của mình thì hãy nên đặt phòng trước khi lên đường nhé
Homestay ở Cao Bằng
Hiện ở một số nơi trong tỉnh như Tp Cao Bằng, Quảng Uyên hay khu vực Thác Bản Giốc có hình thức homestay để phục vụ du khách có nhu cầu. Thay vì ở trong các nhà nghỉ khách sạn Cao Bằng với không gian kín và không có nhiều đặc biệt, các bạn có thể lựa chọn không gian thoáng đãng và gần gũi hơn tại những căn homestay đẹp và xinh xắn.
Các địa điểm du lịch Cao Bằng
Tạo hoá đã ban tặng cho Cao Bằng nhiều núi cao, sông hồ, thác nước và những cánh rừng nguyên sinh tạo nên cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, mang đậm nét hoang sơ rất thích hợp với du lịch ngoạn cảnh, nghỉ ngơi. Cao Bằng cũng chính là cái nôi của Cách mạng Việt Nam.
Di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó
Di tích lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 – 1945).
Khu Di tích lịch sử Pác Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, sát biên giới với Trung Quốc. Đây là khu di tích gồm nhiều điểm di tích gắn với một thời kỳ lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam những năm 1941- 1945, thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Khu Di tích được Nhà nước công nhận ngày 21-1-1975. Ngày 10-5-2012 Khu Di tích Pác Bó được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
Nói đến Pác Bó là nói đến một địa danh lịch sử gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại.
Suối Lê Nin
Suối Lê Nin – con suối đẹp “mĩ miều” ở Pác Bó – khu di tích lịch sử cách mạng quốc gia đặc biệt của nước ta, nằm ở huyện Hà Quảng,Tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm thành phố khoảng 50km về phía Bắc.
Con suối này có một đoạn chảy ngang qua đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay, tạo nên một không gian ấm áp, bao bọc, che chở, tràn ngập tình yêu thương.
Đặc biệt hơn, suối Lê Nin có một màu xanh rất riêng biệt mà chỉ vào tháng 7, tháng 8 hàng năm nước suối mới chảy xiết và đục; còn lại nhưng tháng khác đa số rất trong xanh và hiền hòa, gắn với nhiều câu chuyện, nhiều sự tích độc đáo của lịch sử.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Pác Bó là Di tích Quốc gia đặc biệt. Danh hiệu này hoàn toàn xứng đáng với những gì mà nó thể hiện, góp phần vào việc chăm sóc đời sống tinh thần của người dân bốn phương.
Hang Cốc Bó
Hang Cốc Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là một hang động nổi tiếng nằm trong khu di tích Pác Bó. Đây là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc sau khi trở về nước vào ngày 8 tháng 2 năm 1941. Bác đã đặt tên cho dòng suối trước cửa hang là “suối Lê-Nin” và ngọn núi sở hữu hang Cốc Bó là “núi Các Mác”. Hang Cốc Bó trong tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn” nằm bên sườn núi Các Mác, gần dòng chảy của suối Lê Nin. Vì trong lòng hang tối tăm, ẩm thấp, nhỏ hẹp, lạnh lẽo và nằm sâu trong khe núi nên thời đó không ai để ý tới, hang trở thành nơi trú ẩn lý tưởng cho Bác để hoạt động Cách mạng.
Ngày nay, trong hang vẫn còn lại chiếc giường mà Hồ Chí Minh đã từng nằm nghỉ và cũng là chỗ làm việc của Bác. Đó chỉ là một tấm ván cũ đã nứt nẻ. Nằm sâu bên trong là bức tượng của Các Mác bằng thạch nhũ mà năm xưa Bác Hồ đã đặt tên. Dưới chân núi, bên ngoài hang Cốc Bó chính là nơi Bác Hồ vẫn thường bắc bếp nấu cơm, đun nước uống dùng lá cây ổi làm chè. Bên cạnh hang Cốc Bó, du khách có thể tham quan một số địa điểm du lịch cũng như di tích lịch sử quanh đó như suối Lê Nin, hang Diêm Tiêu, khu di tích lịch sử Pác Pó và đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Núi Các Mác
Núi Các Mác vốn có tên là Phja Tào, nghĩa là Núi Đào (Phja: núi, Tào: đào). Liên quan đến tên gọi Núi Đào, có một câu chuyện mà những người già trong vùng ngày nay vẫn còn kể cho con cháu nghe. Chuyện rằng ngày xưa, vào mùa đào chín, có các nàng tiên từ trên trời xuống đây hái đào ăn. Các cô xuống suối tắm mát, vui chơi, ngắm cảnh núi rừng tươi đẹp. Đến chiều tà các nàng tiên mới rủ nhau bay về trời. Có nàng tiên Út do mải chơi nên bay về sau cùng. Vì vội vàng, nàng bỏ quên quả đào đã hái bên bờ suối. Quả đào đó hóa thành ngọn núi nên mới có tên gọi Phja Tào
Cột mốc 108
Nay là cột mốc số 675, là một trong 314 cột mốc biên giới Việt – Trung xưa, được làm bằng đá tảng nguyên khối, hình bầu dục, cao khoảng 70cm, bên trên khắc nội dung bằng tiếng Trung và tiếng Pháp.
Cột mốc 108 nằm trong quần thể Di tích lịch sử Pác Bó, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng. Cột mốc 108 được dựng vào cuối thế kỉ 19 theo Hiệp ước Pháp – Thanh. Đây là một trong 314 cột mốc dùng để phân định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc tại thời điểm ấy.
Đây là địa danh ghi dấu ấn lịch sử đặc biệt trong lịch sử cách mạng Việt Nam – nơi Bác Hồ đặt chân về nước sau 30 năm xa quê hương và khơi nguồn, tạo lập tổ chức cách mạng.
Cột mốc 108 là một phiến đá hình chữ nhật cao khoảng 1m, bề ngang chừng 8 tấc. Năm 2001, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã hoạch định phân giới cắm mốc, bên cạnh cột mốc 108, cách khoảng 5m là cột mốc quốc giới số 675. Cột mốc 108 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc còn cột mốc 675 mang ý nghĩa pháp lý.
Đối với người dân Cao Bằng, Cột mốc 108 có một ý nghĩa thiêng liêng, luôn luôn được giữ vững, và bảo tồn qua nhiều thế hệ. Trong giai đoạn căng thẳng biên giới năm 1979, người dân trong vùng thay nhau cố gắng giữ được đường biên mốc giới. Cho đến bây giờ, người Pắc Bó, đội dân quân vẫn đi tuần cột mốc.
Lán Khuổi Nặm
Lán Khuổi Nặm cách hang Pác Bó khoảng một cây số. Đường quanh co men theo chân núi, càng đi càng dốc lên. Được biết, đường vào lán xưa kia chỉ là một lối mòn cheo leo, nay được mở rộng hơn và lát đá cho tiện đi lại. Còn khe núi trên đường vào lán ngày trước rậm rạp um tùm giờ là những thửa ruộng bậc thang tiếp nối nhau chạy ngược đến tận phía rừng xa. Trên đường vào lán Khuổi Nặm có di tích hang Slí Điếng và hang Diêm Tiêu. Hang Slí Điếng là một hang đá nhỏ nằm gần đường đi, từng được Bác Hồ và các cán bộ sử dụng làm hòm thư liên lạc bí mật. Các công văn, chỉ thị, báo cáo, thư từ … được đặt ở một vị trí quy định trong hang, cứ đến ngày giờ nhất định thì có người đến lấy hoặc gửi tài liệu. Nhờ thế liên lạc luôn bảo đảm bí mật và thông suốt. Cách đó khoảng trăm mét là hang Diêm Tiêu. Hang ở trên một vách đá khá cao, trước cửa hang cây cối, cỏ dại um tùm. Hang rất kín đáo nên Bác Hồ đã chọn làm nơi cất giấu tài liệu bí mật trong suốt thời gian hoạt động ở đây.
Lán Khuổi Nặm nằm ngay cửa rừng, bên dòng suối nhỏ, dưới gốc cây um tùm. Do nơi dựng lán có dòng suối nên gọi là lán Khuổi Nặm (theo tiếng Tày, Nùng, Khuổi Nặm nghĩa là suối nước). Căn lán nhỏ làm theo kiểu nhà sàn của người Tày, rộng khoảng 12m2, mái lợp tranh, vách được ken bằng lá cáp tao (một loại cây rừng, lá gần giống lá dừa). Sàn được lát bằng những khúc cây rừng. Trên sàn có kê một tấm ván để làm bàn làm việc của Bác. Lịch sử còn ghi, ngày 28-1-1941, sau 30 năm bôn ba hải ngoại, Bác Hồ về nước để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Bác đã chọn Pác Bó làm nơi ở và làm việc.
Nhà ông Lý Quốc Súng
Là ngôi nhà Bác Hồ đã ở khi mới trở về Tổ quốc chỉ đạo cách mạng (từ ngày 28 tháng 01 đến ngày 07/02/1941). Ngôi nhà này được xây dựng khoảng năm 1937, theo kiểu nhà sàn ở địa phương.
Di tích rừng Trần Hưng Đạo
Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, nằm ở hướng Tây Nam cách thị xã Cao Bằng 50Km. Đây là khu rừng nguyên sinh vẫn giữ được vẻ hoang sơ, khí hậu mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 15-20 độ C. Khung cảnh thiên nhiên nơi đây rất lý tưởng cho các chương trình nghiên cứu, du lịch sinh thái đối với du khách trong và ngoài nước.
Đến với Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo chúng ta không những được tìm hiểu truyền thống lịch sử với nhiều điểm di tích mà còn được khám phá, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của khu rừng nguyên sinh.
Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo phân bố trên địa bàn 2 xã Tam Kim, Hoa Thám (Nguyên Bình), là trung tâm hệ thống các di tích lịch sử cách mạng liên quan đến sự kiện thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (VNTTGPQ), bao gồm 5 điểm di tích: Di tích Khu rừng Trần Hưng Đạo; hang Thẳm Khẩu; đồn Phai Khắt; Vạ Phá, xã Tam Kim và di tích đồn Nà Ngần, xã Hoa Thám.
Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo nơi lưu trữ những địa danh, hiện vật gắn liền với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng, có giá trị lịch sử đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam; gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Là nơi chứng kiến ngày thành lập Đội và diễn biến hai trận đánh đầu tiên đồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần.
Di tích đồn Phai Khắt
Di tích đồn Phai Khắt là nơi diễn ra trận đấu đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sau khi thành lập. Đồn Phai Khắt thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, cách khu rừng Trần Hưng Đạo 7km. Tại đây, lúc 17h ngày 25/12/1944, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cùng nhân dân địa phương đã tiêu diệt và bắt gọn chỉ huy cùng toàn bộ binh lính, thu vũ khí của địch.
Chiến công này mở đầu cho truyền thống trăm trận trăm thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.
Di tích mộ anh hùng liệt sỹ Kim Đồng
Khu di tích mộ anh hùng liệt sỹ Kim Đồng nằm trong quần thể Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó (huyện Hà Quảng); là nơi ghi nhớ anh hùng liệt sỹ Kim Đồng, người có công bảo vệ cán bộ cách mạng trong thời kỳ chống Pháp.
Di tích nằm trong khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó(Ảnh sưu tầm)
Kim Đồng (tên thật là Nông Văn Dền) sinh năm 1929. Ngày 15/5/1941, đồng chí Đức Thanh là cán bộ cách mạng quyết định thành lập Đội nhi đồng cứu quốc tại làng Nà Mạ, gồm có 4 đội viên: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Thuỷ, Thuỷ Tiên do Kim Đồng làm đội trưởng.
5 giờ sáng ngày 15/2/1943, trong lúc đang làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh, khi phát hiện giặc lùng sục đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mạng, địch nổ súng, Kim Đồng bị trúng đạn và đã hy sinh, khi đó vừa tròn 14 tuổi.
Di tích chiến thắng chiến dịch Biên giới 1950
Nhà Trưng bày tư liệu liên quan đến chiến dịch Đông Khê 1950 (Ảnh sưu tầm)
Vị trí Khu di tích chiến thắng biên giới trải dài trên địa bàn huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, tập trung chủ yếu ở xã Đức Long và thị trấn Đông Khê. Di tích đồn Đông Khê đánh dấu cho cuộc chiến đấu dũng cảm ngoan cường của quân đội nhân dân ta lúc bấy giờ, những gương mặt hào hùng đã đi vào sử sách như La Văn Cầu, Lý Viết Mưu, Trần Cừ… Vị trí Đài quan sát – Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn để chỉ huy chiến dịch biên giới năm 1950 là núi Lăng Đồn thuộc xóm Nà Lạn, xã Đức Long huyện Thạch An. Đây là khu là di tích được bao phủ bởi thảm thực vật phong phú và đa dạng; xen lẫn là những dấu tích lịch sử của cuộc chiến năm xưa nằm trên cung đường trải nghiệm, khám phá của du khách như: Khu thông tin liên lạc, khu hội họp bàn trận đánh, khu nghỉ ngơi…
Đến tham quan, khám phá và tìm hiểu điểm du lịch di tích lịch sử chiến dịch biên giới 1950; du khách còn được trải nghiệm tham quan các bản làng dân tộc, giao lưu văn hóa với bà con người đồng bào dân tộc Tày, Nùng… nhất là khám phá những nhà sàn hoặc nhà chệt có những nét văn hóa giao thoa của hai nền văn hóa Pháp với văn hóa người dân tộc địa phương đã tạo ra một kiến trúc nhà sàn có sự riêng biệt thể hiện ở các kết cấu, cửa đi lại, hệ thống bệ tảng đỡ trụ cột nhà…tại xã Đức Xuân, Lê Lợi. Theo chủ của ngôi nhà 9 gian tại xóm Tục Ngã, xã Đức Xuân cho biết dường như vị trí ngôi nhà này đã được đánh dấu trong bản đồ du lịch của người Pháp nên du khách đến đây chủ yếu là du khách pháp đến tìm hiểu.
Hang Ngườm Pục
Hang Ngườm Pục là một hang nằm sâu trong dãy núi đá giáp ranh giữa xã Lê Lợi huyện Thạch An (Cao Bằng) và xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định (Lạng Sơn). Hang có độ sâu gần 100 mét tính từ cửa vào, trải dài với hệ thống nhũ đá nguyên sơ và rất đẹp nhưng chưa được nhiều người biết đến. Địa hình trong hang tương đối hiểm trở, muốn đến đây khám phá thì du khách phải chui qua các khe đá hẹp, sườn núi hiểm trở.
Hang Ngườm Pục mới được phát hiện nên trước đó chưa nằm trong danh sách các điểm danh lam, thắng cảnh của Cao Bằng. Với vẻ đẹp hấp dẫn và được chia sẻ qua mạng xã hội vào thời gian gần đây, Ngườm Pục đang thu hút khá nhiều du khách đến khám phá.
Thác Bản Giốc
Thác Bản Giốc, Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên-Bản Ước (tiếng Trung: 德天-板約; bính âm: Détiān – Bǎnyuē), là một hoặc hai thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thác Bản Giốc nằm cách thành phố Cao Bằng khoảng 90km và cách trung tâm thủ đô Hà Nội 400km, thuộc địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh. Xuất phát từ thành phố Cao Bằng bạn có thể đi theo hướng Trà Lĩnh – Tống Cọt để tới bản Giốc. Với những người đam mê phượt có thể lựa chọn con đường qua đèo Mã Phục vì phong cảnh núi rừng trên đường đi rất đẹp và thu hút.
Nhìn từ góc thấp, các dòng thác như dải lụa làm say lòng nhiều khách tham quan và các nhiếp ảnh gia đến sáng tác. Tháng 9, 10 là thời gian lý tưởng khám phá thác Bản Giốc, khi nước nhiều mà trong xanh, các dòng thác tuôn chảy tung bọt trắng xóa. Khí hậu ở thác Bản Giốc Cao Bằng được chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Thời điểm mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9. Đây cũng là thời điểm ngọn thác tuôn nước, đổ bọt trắng xoá, rất thích hợp cho những chuyến đi thác Bản Giốc, đặc biệt là vào thời điểm tháng 8 – tháng 9.
Xem thêm: Kinh nghiệm đi phượt Thác Bản Giốc
Động Ngườm Ngao
Động Ngườm Ngao nằm ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Động có chiều dài 2.144m. Động gồm ba cửa chính là: Ngườm Ngao, Ngườm Lồm (tức cửa gió, quanh năm mát lạnh) và cửa Bản Thuôn phía sau núi thuộc Bản Thuôn.
“Vào năm 1921, khi một số viên quan người Pháp và người Việt đến thăm thác Bản Giốc đã phát hiện ra động này”, hướng dẫn viên du lịch bản địa chia sẻ. Theo các số liệu của Hội khảo sát Hoàng gia Anh cho thấy, động Ngườm Ngao có tổng chiều dài lên đến 2.144m. Động gồm ba cửa chính là: Ngườm Ngao, Ngườm Lồm (tức cửa gió) và cửa Bản Thuôn phía sau núi thuộc Bản Thuôn.
Theo tiếng Tày, “ngườm” nghĩa là “động”, “ngao” nghĩa là “hổ”. Tương truyền, trước đây hang là nơi sinh sống của rất nhiều hổ dữ, nên còn được gọi là “hang Cọp”, về sau người ta quen gọi là động Ngườm Ngao. Tuy nhiên, cũng có lý giải khác là do trong động thường xuyên phát ra tiếng gầm rú như tiếng hổ, nhưng thực tế đó là tiếng nước chảy.
Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc
Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc – ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ở nơi biên cương phía Bắc của Tổ quốc được UBND tỉnh Cao Bằng phê duyệt xây dựng. Tháng 06/2013, Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc được khởi công tại núi Phia Nhằm cách thác Bản Giốc 500m. Các hạng mục của chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc như Tam quan chùa, lầu tượng Bồ Tát, Tam bảo, nhà tổ… được xây dựng theo phong cách kiến trúc Phật giáo truyền thống Việt Nam.
Tại đây còn có đền thờ vị anh hùng Nùng Trí Cao – một nhân vật, biểu tượng Văn hoá thế kỷ XI tại Cao Bằng. Công trình được xây dựng trên diện tích 2 ha với kinh phí khoảng 38 tỷ đồng, chủ yếu từ nguồn xã hội hóa do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam huy động, các tập đoàn và các nhà hảo tâm đóng góp và tài trợ
Làng rèn Phúc Sen
Phúc Sen là một xã thuộc huyện Quảng Uyên, cách TP Cao Bằng khoảng 30km về phía đông. Nơi đây được thiên nhiên ưu đãi ban tặng phong cảnh non nước hữu tình, nằm trong khu vực Công viên địa chất non nước Cao Bằng. Người dân sinh sống ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc Nùng An. Cho tới nay, ở Phúc Sen vẫn còn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống đáng quý. Và tiêu biểu nhất trong số đó, chính là nghề rèn dao của đồng bào nơi đây.
Người Nùng An ở Phúc Sen có câu: “Mầy lếch sạu mầy than/Rạu tú ràn má tăng” (Có sắt và có than/Mình mới cùng nhau rèn), để thấy, đối với đồng bào nơi đây, nghề rèn đã là một phần gắn bó không thể thiếu trong đời sống của họ.
Du lịch cộng đồng bản Pác Rằng
Bản Pác Rằng, thuộc xã Phúc Sen, nằm ven Quốc lộ 3, từ thị xã Cao Bằng đi Cửa khẩu quốc gia Tà Lùng, phía trước Bản là cánh đồng nhỏ hướng ra Quốc lộ, sau lưng là những ngọn núi đá hùng vĩ với những cánh rừng nguyên sinh tạo một không gian thanh bình, xanh mát mà bất cứ du khách nào cũng có thể cảm nhận được khi tới khu vực này.
Bản Pác Rằng (Ảnh sưu tầm)
Phát triển du lịch cộng đồng ở Pắc Rằng đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần phát huy thế mạnh văn hóa địa phương, cũng như nâng cao đời sống cho đồng bào…
Điều dễ nhận thấy nhất khi tới bản Pác Rằng là các hộ gia đình vẫn lưu giữ được kiểu kiến trúc nhà sàn gỗ truyền thống kết cấu 2 tầng. Tầng một là chuồng trại gia súc, công trình vệ sinh, phía bên là lò rèn. Tầng 2 là không gian sinh hoạt cho các thành viên trong gia đình, gồm: các phòng ngủ, gian tiếp khách và bếp. được bố trí khoa học và hợp vệ sinh. Tầng lửng được dùng làm kho chứa nông sản.
Các món ăn truyền thống đặc sắc luôn được chuẩn bị tươm tất nóng hổi, thơm ngon như: khâu nhục, rau dạ hiến xào thịt bò, lợn quay mắc mật, cá suối chiên giòn… Đêm xuống, các thành viên đội văn nghệ và đông đảo bà con hòa trong điệu hát Hèo phươn… say đắm lòng người.
Hồ Thang Hen
Nằm ở vùng núi cao hơn 1000 mét so với mực nước biển, quần thể hồ Thang Hen bao gồm 36 hồ nước ngọt tự nhiên, mỗi hồ cách nhau vài chục đến vài trăm mét. Hồ này có dáng hình thoi, chiều rộng từ 100m – 300m, chiều dài từ 500m- 1000m, độ sâu từ 10m – 40m. Quanh năm nước hồ không cạn.
Nơi đây, có tiếng đẹp như tranh, mặt hồ được ví như một chiếc gương long lanh màu ngọc bích, nằm gọn gàng giữa những tán rừng phủ xanh triền núi, cảnh quan non nước rất hữu tình. Bạn sẽ phải đắm chìm trong khung cảnh xung quanh, với những tán rừng già, trám trắng, trắm đen, xen lẫn những mỏm đá tai mèo.
Độc đáo hơn là hàng ngày mực nước hồ có 2 đợt dâng lên và hạ xuống như thủy triều. Trong khi, vào mùa lũ các hồ khác chuyển màu đỏ lựng những hồ Thang Hen vẫn giữ màu xanh biếc như ngọc. Nếu bạn ở lại qua đêm, vào khoảng tháng 9-10, bạn sẽ chứng kiến nước hồ rút cạn chỉ trong vài giờ đồng hồ rồi lại đầy sau đó.
Thác Nặm Trá
Núi “Mắt thần” – thác Nặm Trá nằm trong thung lũng thuộc xóm Bản Danh, xã Quốc Toản (Trà Lĩnh), cách danh lam thắng cảnh cấp tỉnh Hồ Thang Hen khoảng 2 km, với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vỹ, hoang sơ, mới được phát hiện nhưng đã thu hút rất nhiều du khách tham quan, khám phá.
Từ tỉnh lộ rẽ phải vào hồ Thang Hen đến xóm Bản Danh, tiếp tục rẽ vào con đường mòn dưới chân núi, chỉ có thể đi bộ vào, đi khoảng 1,5 km là đến núi Mắt thần – thác Nặm Trá. Nhìn từ đỉnh núi, du khách bị choáng ngợp trước cảnh sắc hồ Nặm Trá rộng khoảng 15 ha đã cạn nước, một thảm cỏ xanh bạt ngàn được bao quanh bởi những ngọn núi. Dưới núi là những nương ngô uốn lượn tạo nên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình. Nơi đây được dân yêu thích xê dịch đặt cho cái tên “Tuyệt Tình Cốc Cao Bằng“.
Đặc biệt nhất là ngọn núi Phja Piót (tiếng Tày: “núi thủng”), vì ngọn núi có một khoảng lớn thông qua mặt sau hình tròn như con mắt, được người dân nơi đây thường gọi và du khách tán thưởng với tên núi “Mắt thần”. Bà Vi Thị Năm, 76 tuổi, xóm Bản Danh cho biết: Hằng năm, vào khoảng tháng 6, 7, nước dâng lên ngập toàn bộ hồ Nặm Trá nên phải chờ đến tháng 8, 9 nước rút hết, mọi người mới chăn thả trâu, bò trên các gò đất cạn của mặt hồ. Thời gian gần đây, có rất nhiều du khách đến tham quan khu vực này.
Đèo Mã Phục
Đèo Mã Phục là con đèo đẹp nhất trong các con đèo trên trục đường QL3 từ Phủ Lỗ đến cửa khẩu Tà Nùng, cách Cao Bằng 22 km. Thuộc xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, là ranh giới huyện Hòa An và huyện Trà Lĩnh.
Đèo Mã Phục cao khoảng 620 m (để lên tới đỉnh phải vượt qua bảy vòng dốc). Có rất nhiều thuyết về tên gọi Mã Phục, nhưng thực tế khi tới đây, bất cứ du khách nào cũng dễ dàng nhìn thấy hai bên đường có hai khối đá vôi, dựng đứng chầu vào nhau như hai con ngựa nằm phủ phục. Đỉnh đèo Mã Phục bị kẹp giữa hai ngọn núi tựa như một cổng thành trước khi ra khỏi thành phố đi về 5 huyện phía Đông thành phố Cao Bằng (Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hòa). Khung cảnh xung quanh đèo Mã Phục đẹp hút hồn, một bên là vách núi cheo leo, một bên lại là vực sâu thăm thẳm. Chính độ hiểm trở tạo nên nét kỳ thú có một không hai ở đây.
Có lẽ, không một con đèo nào lại đặc biệt như đèo Mã Phục, nơi có những phiên chợ họp ngay trên đỉnh đèo. Cứ 5 ngày một phiên vào mùng 3, 8, 13, 18, 23, 28 hàng tháng, những người Nùng, Tày, Dao từ các bản làng xa xôi lại vượt núi, gánh hàng lên họp mặt, từ hạt dẻ Trùng Khánh, dao cuốc xẻng Quảng Uyên… Một đặc sản nổi bật tại phiên chợ đó chính là thịt bò, luôn được du khách yêu thích lựa chọn mua về làm quà. Những chàng trai cô gái được dịp hát Sli trong sương bay…
Chinh phục đèo Mã Phục, ngắm nhìn thiên nhiên toàn cảnh và mua đặc sản Cao Bằng ngay tại chợ phiên trên đỉnh đèo chính là một trải nghiệm vô cùng lý thú đối với mỗi du khách khi đến đây.
Đèo Khau Liêu
Đèo Khau Liêu không quá hiểm trở như những con đèo khác ở Tây Bắc, nhưng nơi đây lại trở thành một trong những con đường nguy hiểm nhất Đông Bắc.
Du khách nếu muốn ghé thăm động Ngườm Ngao, thác Bản Giốc, hang Cô Tiên… đều phải đi qua đoạn đường đèo này.
Các cửa khẩu giữa Cao Bằng – Trung Quốc
Cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng
Cửa khẩu Tà Lùng là cửa khẩu quốc tế tại vùng đất bản Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Cửa khẩu Tà Lùng là điểm cuối của quốc lộ 3, tiếp nối là cầu Thủy Khẩu trên sông Bắc Vọng, thông thương sang cửa khẩu Thủy Khẩu tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Tà Lùng là cửa khẩu chính của tỉnh Cao Bằng, nằm gần ngã ba nơi sông Bắc Vọng đổ vào sông Bằng. Sông Bắc Vọng có đoạn dài là biên giới tự nhiên ở phía đông huyện Phục Hòa.
Cửa khẩu Trà Lĩnh
Cửa khẩu Trà Lĩnh hay cửa khẩu Hùng Quốc hay cửa khẩu Nà Đoỏng là cửa khẩu quốc gia tại vùng đất bản Hía ở thị trấn Hùng Quốc, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Cửa khẩu Trà Lĩnh thông thương sang cửa khẩu Long Bang ở thành phố Bách Sắc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Pò Peo
Cửa khẩu Pò Peo là cửa khẩu tại vùng đất bản Nà Han xã Ngọc Côn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam thông thương sang cửa khẩu Nhạc Vu ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Pò Peo là điểm cuối của tỉnh lộ 211, cách thị trấn Trùng Khánh khoảng 22 km theo đường này. Cửa khẩu ở phía đông nơi sông Quây Sơn chảy vào đất Việt chừng 2 km. Đoạn sông bên Trung Quốc có tên là Nan Tan He.
Cửa khẩu Lý Vạn
Cửa khẩu Lý Vạn là cửa khẩu tại vùng đất bản Lý Vạn xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Cửa khẩu Lý Vạn thông thương sang cửa khẩu Thạc Long ở huyện Đại Tân, TP. Sùng Tả, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Cửa khẩu Lý Vạn cách thành phố Cao Bằng 60 km theo đường thẳng về hướng đông bắc.
Cửa khẩu Sóc Giang
Cửa khẩu Sóc Giang là cửa khẩu tại vùng đất bản Sóc Giang xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam thông thương sang cửa khẩu Bình Mãng ở thành phố Bách Sắc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Sóc Giang cách thành phố Cao Bằng 42 km theo đường thẳng về hướng bắc tây bắc, và khoảng 55 km theo tỉnh lộ 203. Cửa khẩu gần kề với nơi sông Bằng chảy vào đất Việt.
Phia Đen – Phia Oắc
Khu bảo tồn thiên nhiên Phia Oắc – Phia Đén hay còn gọi Phja Oắc – Phja Đén là khu rừng đặc dụng có diện tích 10.245,6 ha nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đây từng là khu nghỉ dưỡng được tìm ra và xây dựng bởi người Pháp từ đầu thế kỷ 20. Nơi đây có cấu tạo địa chất rất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm như vàng, bạc, thiếc, vonphram, quặng uranium… Phia Oắc – Phia Đén vẫn giữ được rừng nguyên sinh, hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Đặc biệt, nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành, mát mẻ, có băng tuyết về mùa đông và là nơi lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái.
Vườn Quốc gia Phia Oắc – Phia Đén được thành lập tháng 1/2018 trên cơ sở chuyển hạng từ cấp Khu Bảo tồn; trải dài trên địa phận các xã Thành Công, Quang Thành, Phan Thanh, Hưng Đạo và thị trấn Tĩnh Túc (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Tổng diện tích tự nhiên của Khu Bảo tồn là 10.000 ha, trong đó có hơn 8.000 ha rừng tự nhiên.
Phia Oắc – Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao nhất trong khu vườn quốc gia. Đỉnh Phia Oắc có độ cao 1.931 m, được ví như “nóc nhà” phía Tây của tỉnh. Rừng ở đây thuộc kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới; có 1.287 loài thuộc 786 chi trong 202 họ thực vật của 6 ngành thực vật, trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm nằm trong Sách Đỏ Việt Nam… Hiện nay, Vườn có 496 loài động vật có xương sống, ngoài ra còn hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng… Trong số các loài động vật có tên trong danh mục, đã xác định được 58 loài động vật quý hiếm, bao gồm 30 loài thú có tên trong Sách Đỏ Việt Nam; 12 loài bò sát, trong đó 3 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp; 3 loài ếch nhái, trong đó 2 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý hiếm, những nguồn gen động vật này có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao.
Chợ phiên Cao Bằng
Từ lâu, chợ phiên đã trở thành nét sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống của người dân Cao Bằng. Ngoài mục đích mua bán, trao đổi hàng hóa, chợ phiên còn là nơi giao lưu văn hóa của đồng bào các dân tộc nơi đây.
Hầu như các huyện đều có những phiên chợ phiên, được quy định cụ thể vào các ngày trong tháng (tính theo âm lịch), như chợ phiên Quảng Uyên diễn ra các ngày 1, 6, 11, 16…, chợ phiên Trà Lĩnh ngày 4, 9, 14, 19… hằng tháng. “Đến hẹn lại lên”, những dòng người từ trên núi xuống, từ những thung lũng đổ về chợ, làm náo nhiệt cả một vùng… Các phiên chợ vùng cao đã ăn sâu vào trong tiềm thức, nếp sống của người dân.
Đến chợ phiên của mỗi huyện, du khách sẽ cảm nhận được nét đặc sắc riêng. Như đến với chợ phiên Quảng Uyên, mọi người sẽ được chìm đắm trong sắc màu thổ cẩm với những thiếu nữ dân tộc Nùng. Chợ phiên Quảng Uyên cũng là phiên chợ nổi tiếng với các sản phẩm của nghề rèn truyền thống.
Các món ăn ngon ở Cao Bằng
Bánh coóng phù (Bánh trôi)
Bánh trôi hay còn gọi là coóng phù là một món quà vặt mỗi khi đông về ở Cao Bằng. Những viên bánh nặn tròn xoe hay thuôn dài nhân lạc và vừng giã nhỏ, chan nước đường nấu gừng thơm nồng luôn thu hút các thực khách.
Những người sành ăn và người bán bánh trôi lâu năm đều cho rằng, bánh trôi ngon là phải chọn được gạo nếp ngon, dẻo và thơm, khi nặn viên bánh không cứng, lúc chín không bị nát. Nước đường gừng phải thơm ngon đạt đến độ vị ngọt của đường quyện trong vị gừng cay. Để đạt được như vậy đường phải là đường phên của Cao Bằng bào nhỏ, khi nấu nước đường phải giữ sôi liu riu trên bếp đến khi đường cô lại vừa phải, nước đường sánh vàng, hương vị đậm đà, ngọt vừa phải khi chan bánh mới hòa quyện vào nhau.
Bánh cuốn
Nếu như bánh cuốn tại nhiều tỉnh, thành chỉ là lớp bột được xay từ gạo, quết vào bên trong là nhân thịt, chấm với nước mắm, có tỏi, ớt bên trong thì bánh cuốn Cao Bằng hoàn toàn khác.
Bánh cuốn ăn kèm với một chén nước súp được ninh nhừ từ thịt xương, không hề có váng mỡ hay tép mỡ, mà chén nước dùng ngọt lịm, còn khói bốc lên.
Lý giải về món ăn “kì lạ” này, bạn tôi là người địa phương giải thích, có lẽ là cuộc sống dựa vào việc nương rẫy trên vùng cao nên người Cao Bằng (chủ yếu là người Tày) hay ăn món gì phải nóng để tốt cho dạ dày và hệ hô hấp. Do đó, bánh cuốn phải ăn kèm với canh súp nóng hổi.
Bánh áp chao
Bánh áp chao là một món ăn đặc sản của vùng đất Cao Bằng. Người dân nơi đây còn gọi loại bánh này là bánh áp chao hay còn gọi là bánh vịt chao. Chiếc bánh hấp dẫn bởi vị thơm giòn của vỏ bánh và đậm đà ngọt bùi của nhân thịt vịt bên trong kết hợp với nước mắm chua cay là những dư vị vô cùng đặc biệt của ẩm thực vùng Đông Bắc.
Nguyên liệu để làm nên bánh không quá cầu kì, gồm bột gạo nếp, bột gạo tẻ và nhân thịt. Thế nhưng, vị độc đáo ở đây chính là nhân bánh được làm bằng thịt vịt. Vỏ bánh cũng khá lạ, là hỗn hợp của gạo nếp, gạo tẻ và đỗ tương. Gạo mới dẻo thơm, cùng với đỗ tương đổ vào ngâm khoảng 8 tiếng cho gạo và đỗ mềm, vớt ra, để ráo nước rồi đem xay thành bột. Cùng với gạo tẻ mới gặt, đỗ tương phải là đỗ Quảng Uyên lòng vàng mới cho ra thứ bột hỗn hợp bột đặc sánh, đảm bảo độ mềm dẻo và thơm ngon. Hỗn hợp bột sau khi trộn ủ khoảng 3, 4 giờ để khi rán bánh phồng đều.
Để có nhân bánh ngon thì thịt vịt lọc bỏ xương, tẩm ướp gia vị gần giống vịt quay rồi cắt thành miếng nhỏ. Xắt bột ra thành từng miếng, đặt miếng thịt vịt vào giữa làm nhân rồi ép bánh lại, thả từ từ vào chảo dầu sôi, chao qua lại tới khi bánh chín vàng ruộm hai mặt thì vớt ra để ráo mỡ là có thể đem ra ăn nóng. Bánh áp chao ăn kèm với nước mắm chua ngọt, rau thơm và đu đủ bào sợi mỏng mới cảm nhận được hết vị ngon của nó.
Bánh trứng kiến (Pẻng Rày)
Đến Cao Bằng vào khoảng tháng 4, tháng 5, du khách được thưởng thức bánh trứng kiến – món bánh đặc sản của người dân nơi đây. Bánh trứng kiến được làm ra từ bột gạo nếp, trứng kiến, cùng lá non của cây vả.
Bánh trứng kiến theo tiếng Tày gọi là “pẻng rày”. Thời điểm cuối xuân, đầu hè là dịp thích hợp để người dân vào rừng tìm trứng kiến, nhưng không phải loại kiến nào cũng có thể lấy trứng để ăn được. Người ta chỉ lấy trứng của loại kiến đen có thân nhỏ, đuôi nhọn và thường làm tổ trên cây vầu, sau sau. Trứng kiến ở những tổ này thường có màu trắng sữa, to bằng hạt gạo. Để lấy được trứng kiến cần có một số dụng cụ chuyên dùng, đồng thời phải thật khéo léo để tránh bị kiến tấn công cũng như trứng kiến không bị rơi rụng nhiều. Một tổ kiến to thường chỉ có khoảng một nửa bát con trứng.
Phở chua
Phở chua là đặc sản của vùng đất Cao Bằng, góp phần làm phong phú cho nét văn hóa ẩm thực của các tỉnh miền núi phía Bắc. Phở chua với nhiều gia vị, thành phần như thịt ba chỉ rán giòn màu vàng sậm đẹp mắt, khoai tầu (củ to, bở và ngọt chỉ có ở tỉnh Bắc Cạn và Cao Bằng) được cắt sợi chiên giòn, gan lợn cắt mỏng, dạ dày lợn được làm sạch sau đó luộc qua rồi mới đem rán, thịt vịt quay béo tròn, trong bụng tẩm ướp các loại gia vị và đặc biệt không thể thiếu hương vị của lá móc mật. Bánh phở Cao Bằng thơm, dai, khó lẫn với những địa phương khác vì được làm từ gạo Cao Bằng ngọt mà dẻo. Ngoài các nguyên liệu trên, phở chua còn ăn kèm với đậu phộng, rau thơm, húng, mùi, dưa chuột cắt mỏng.
Phở chua Cao Bằng (Ảnh sưu tầm)
Nếu có dịp khám phá thiên nhiên hùng vĩ còn nhiều nét hoang sơ của thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, khu di tích lịch sử Cách mạng Pác Bó, khi quay lại thành phố Cao Bằng, bạn nên ghé chợ Xanh (gần bến xe) để thưởng thức món đặc sản phở chua mà không một nơi nào có thể sánh được. Phở chua chủ yếu bán vào buổi sáng với giá 20.000 đồng một bát.
Vịt quay 7 vị
Không phải như món vịt thông thường, để có món vịt quay Cao Bằng, ngay từ khâu chọn vịt đã rất công phu. Vịt cỏ không dùng được, ngược lại vịt quá to, nhiều mỡ cũng bị loại. Vịt vừa phải, chắc thịt, sáng lông, nặng khoảng 1,8 kg, 2 kg được làm sạch, mổ moi cho khéo rồi nhúng qua nước sôi làm săn thịt.
Quan trọng nhất là khâu ướp vịt. Mắm, muối hòa lẫn trong nước 7 vị rót từ từ vào bụng vịt để gia vị ngấm sâu vào từng thớ thịt. Một chiếc lạt tre dẻo, chẻ mỏng và chuốt nhọn đầu dựng làm kim, khâu bụng vịt, giữ cho nước không chảy ra ngoài. Theo nhiều người 7 vị đó có lẽ là bí quyết riêng của người Tày sống ở miền đông tỉnh Cao Bằng.
Ẩn sâu trong từng miếng vịt quay là một mùi hương ngai ngái như mùi lá non,;vị hơi đắng nhưng càng ăn càng đậm thịt. Đó là do thứ nước sốt 7 vị được lấy từ trong bụng vịt rưới lên. Những người từng được nếm qua đều đoán già, đoán non rằng trong 7 thứ gia vị ấy,;có rất nhiều vị là rễ và lá cây được lấy ở trên rừng. Vì vậy, dù nhiều người muốn học tập cách làm vịt quay của người Cao Bằng,;nhưng đều không thể gợi nên được mùi vị đặc trưng ấy.
Lợn sữa quay
Ở Cao Bằng thường chọn loại lợn địa phương từ 4 đến 6 kg để quay. Sau khi sơ chế xong dùng giấy bản thấm khô mình con lợn, (nếu rửa bằng nước thịt sẽ nhão, không săn, mất hết vị thơm ngon). Sau đó nhồi lá mác mật cùng các gia vị khác vào bụng con lợn rồi khâu lại, dùng cây tre xuyên từ mõm tới đuôi rồi quay trên bếp than hồng, vừa quay vừa dùng mật ong và các gia vị khác phết lên mình con lợn để cho giòn bì và khỏi nứt.
Thịt quay ngon là thịt vừa chín tới, bì vàng rộm, giòn tan, mùi thơm quyến rũ. Nước dùng chấm thịt lợn quay được pha chế theo một công thức rất riêng biệt.
Bò gác bếp
Thịt bò dùng để sấy khô loại nào cũng ngon, không kén chọn. Nhưng ngon nhất vẫn là loại thịt mông, thịt bắp, vừa nạc vừa mềm. Thịt được xẻ ra thành từng miếng to nhỏ tùy ý. Nhưng thường to chừng hai ba ngón tay, dài chừng gang tay là vừa nhất.
Cao Bằng là nơi nuôi nhiều bò, nhất là các huyện Hà Quảng, Bảo Lạc, Bảo Lâm. Có dịp đến vùng đất cao xa vời vợi, thưởng thức đặc sản nơi này, bạn đừng bỏ qua món thịt bò gác bếp. Bò ở Cao Bằng để cày bừa, kéo xe. Bò để thịt cũng nhiều. Trong đó, sấy khô là cách chế biến để bảo quản, dự trữ thịt bò của người dân địa phương, vừa để được lâu lại vừa có hương vị thơm ngon độc đáo.
Thịt bò dùng để sấy khô loại nào cũng ngon, không kén chọn. Nhưng ngon nhất vẫn là loại thịt mông, thịt bắp, vừa nạc vừa mềm. Thịt được xẻ ra thành từng miếng to nhỏ tùy ý. Nhưng thường to chừng hai ba ngón tay, dài chừng gang tay là vừa nhất. Thịt được tẩm ướp bằng muối, nước cốt gừng và đặc biệt không thể thiếu rượu trắng. Trước khi ướp, khía vài đường trên miếng thịt cho gia vị ngấm đều. Ướp xong dùng lạt tre tươi xâu thịt thành từng xâu rồi treo trên gác bếp.
Xôi trám Cao Bằng
Với người dân Cao Bằng, xôi trám là một món ăn dân dã, truyền thống. Chị Phạm Thị Kim Oanh ở huyện Hòa An vẫn thường xuyên làm món xôi trám cho gia đình: “Tôi là người Cao Bằng. Thường thường, ngay bản thân gia đình nhà của tôi rất hay làm xôi trám đặc biệt là vào ngày giỗ và ngày rằm. Mặc dù làm xôi trám hơi cầu kỳ, mất công nhưng ăn lại rất là ngon”.
Quả trám đen chỉ to bằng ngón tay cái, thon nhọn ra hai đầu. Trám đen có hai loại là trám nếp và trám tẻ. Thông thường, người ta hay chọn trám nếp để đồ xôi vì có vị bùi, ngọt, thịt mềm chứ không cứng và giòn như trám tẻ. Phải chọn loại trám nếp chín cây có màu tím thẫm, quả còn tươi, đỉnh cuống còn dính nhựa, da quả căng, bóng, mịn không bị rộp. Ở Cao Bằng, trám đen ở thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An là ngon nhất do khí hậu thổ nhưỡng hợp với loại cây này.
Xôi trám dẻo, thơm, không dính tay, đơm ra đĩa có màu tím hồng khá đẹp. Món xôi trám ngon nhất khi ăn cùng muối vừng đen hoặc lạp xưởng Cao Bằng. Mùi thơm của hạt nếp dẻo hòa lẫn cùng vị bùi, béo ngậy, giàu chất dinh dưỡng của trám rừng, ăn nhiều không thấy ngán.
Quả mác mật
Vào cuối tháng 7, đầu tháng 8 hằng năm, có dịp lên đến Cao Bằng, du khách sẽ gặp và được thưởng thức một loại quả đặc trưng màu vàng nhạt, chín mọng với hương vị thơm, vừa ngọt vừa chua – đó là quả mác mật.
Quả mác mật (Ảnh sưu tầm)
Mác mật là tên gọi theo tiếng Tày, Nùng, hiểu nôm na là quả ngọt. Cây chủ yếu mọc ở chân núi đá vôi, một số ít trên sườn núi đá và vườn đồi do người dân đem hạt và cây con về trồng; được phân bố ở hầu hết các huyện trong tỉnh, nhưng tập trung nhiều nhất là ở các huyện: Thạch An, Hạ Lang, Quảng Uyên, Hoà An, Thông Nông.
Mác mật là loại cây ăn quả, quả và hạt có đặc trưng thơm, vị hơi chua ngọt, lá và quả có tinh dầu thơm, cùi (thịt quả) có vị chua ngọt. Vào những ngày này, tại các chợ phiên, mác mật được bày bán khắp nơi. Những chùm mác mật lúc lỉu, tươi rói, quả to tròn như hòn bi, quả nhỏ như đầu ngón tay út. Quả nào quả nấy căng tròn, chín mọng, được xếp ngay ngắn trong sọt, có người bán cẩn thận lấy lạt buộc thành từng túm. Khi nếm quả mác mật, ta thấy có mùi hương thật đặc biệt, nước quả ứa ra từ lớp cùi trắng, đặc và trong như thạch, đầu lưỡi sẽ cảm nhận một vị ngòn ngọt, chua chua rất hấp dẫn.
Ngoài quả ra, lá của cây mắc mật cũng mang một hương vị tuyệt vời, được dùng để chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn. Khi lá vừa ngả màu xanh đậm có mùi thơm và vị the tựa như vỏ cam, vỏ quýt, mới hái đem về rửa sạch để cho ráo nước, sau nhồi vào bụng vịt, lợn để làm món vịt quay, lợn quay; dùng để cuốn bên ngoài miếng thịt lợn để làm món chả. Có thể thái nhỏ xào với măng tươi, thịt…
Cá chiên sông Gâm
Sông Gâm được mệnh danh là nơi sống của của “tứ quý hà thủy” và cá Chiên chính là một trong số loài thủy quái đó. Cao Bằng còn một đặc sản thuộc loại nổi tiếng, đó là con cá chiên sông Gâm. Với hình thù giống như một con “quái vật”, đầu cá nham nhở như một khúc gỗ mục, toàn thân trơn nhẵn không vảy, nhưng xù và có màu sắc loang lổ. Bản tính loài cá này dữ dằn và hung ác. Muốn săn được loài cá này phải có lòng dũng cảm, sự kiên trì và sức khỏe.
Cá chiên có con đến vài chục kg, là loại khó bắt vì chuyên sống trong hang ngầm dưới sông. Người đi câu thường đóng cả lán trại thường xuyên để đợi cá, đến khi câu được con nào là có người đến tận chỗ mua.
Cá Trầm Hương (Bản Giốc)
Đây là loài cá ngon trứ danh ở thác Bản Giốc (Cao Bằng). Theo người dân, trước đây ở phía dưới chân thác có rất nhiều cá trầm hương. Họ dễ dàng đánh bắt và bán nhiều ở chợ Trùng Khánh. Tuy nhiên ngày nay loài cá này ngày càng ít đi và trở thành một đặc sản.
Gọi là cá trầm hương bởi loài cá này thường ăn rễ, lá mục của cây trầm hương mọc ven sông Quây Sơn và Bắc Vọng. Chính vì vậy thịt chúng ngon hơn nhiều loại cá nào khác, khi ăn có thể cảm nhận được vị trầm.
Cá trầm hương được câu ngay tại thác Bản Giốc mới là loại ngon nhất, bởi chúng bơi dưới dòng thác nên thịt săn chắc. Món ngon nhất từ loài cá trầm hương là nướng, vì giữ nguyên được mùi vị của cá, khiến người sành ăn cũng phải trầm trồ. Cá bắt từ sông, làm sạch, mổ bụng rồi nhét thêm một vài loại rau, gia vị như hành, thì là, ớt… vào bên trong, bọc qua bằng lớp lá chuối rồi cho lên bếp than nướng.
Khi chín, cá tỏa mùi thơm nức. Gỡ miếng cá chấm cùng chút nước mắm nguyên chất, cảm nhận vị thơm ngây ngất, phảng phất vị trầm khiến bạn sẽ nhớ mãi.
Rau dạ hiến
Với nhiều tên gọi khác nhau như bò khai, khau hương hay dạ hiến, loài rau này lên xanh mơn mỏn, đã mắt mà không cần phải chăm sóc. Chúng không sống ở những vùng đất màu mỡ mà mọc trên núi đá, chia làm nhiều nhánh, bò, bám theo các thân cây gỗ vươn lên lấy ánh sáng mặt trời.
Đây là thứ rau dại, nhưng không phải ở vùng nào cũng có. Từ sau Tết đến tháng 7 âm lịch, rau mọc nhiều và ngon, là món quà bất cứ ai lên vùng đất Cao Bằng cũng muốn mua về cho người thân.
Chỉ cần lấy một nắm, rửa sạch là có thể chế biến thành nhiều món ngon như xào tỏi, tôm, mực, trứng hay thịt bò… Rau dạ hiến dùng cho các món lẩu, nấu canh cũng có sức hấp dẫn bởi vị thơm nồng, ngai ngái, ăn một lần thì nhớ mãi.
Đặc sản Cao Bằng làm quà
Miến dong Phia Đén
Nằm ở độ cao trên 1.000m, xóm Phia Đén có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm là 20 độ C cùng nguồn thổ nhưỡng đất đồi rừng, thuận lợi cho cây dong riềng sinh trưởng và phát triển. Loại cây này là chính là nguyên liệu làm nên đặc sản miến dong Phia Đén Cao Bằng. Củ dong riềng được trồng tại Phia Đén từ khoảng tháng Giêng đến tháng hai Âm lịch. Vụ thu hoạch rơi vào khoảng tháng 10 – 11. Mỗi gốc dong riềng có thể cho thu về 6 – 7 kg củ.
Miến dong Phia Đén (Ảnh sưu tầm)
Chất ngọt của dong đặc trưng, sự tỉ mỉ, cẩn thận trong khâu chế biến, làm bằng nước của suối nguồn mát lạng, cùng với đó là độ an toàn cao, không hề có chất bảo quản, chất làm trắng, đồng thời được phơi ở mội trường ko cát bụi ô nhiễm, miến dong Cao Bằng đã làm nên thương hiệu riêng được nhiều vùng miền trong cả nước biết đến.
Hạt dẻ Trùng Khánh
Hạt dẻ ngon nhất và được nhiều người tìm mua nhất có lẽ là hạt dẻ Trùng Khánh. Đây là một trong những món ăn được nhắc đến nhiều nhất khi nói về đặc sản Cao Bằng, nhất là trong những ngày trời lạnh thế này.
Hạt dẻ Trùng Khánh được trồng nhiều ở vùng đất sát biên giới. Bà con Tày, Nùng thường trồng hạt dẻ theo lối quảng canh nên sản lượng không lớn, hạt dẻ Trùng Khánh vì thế càng trở nên quý hơn.
Hạt dẻ Trùng Khánh khác biệt bởi lớp vỏ cứng, dày và có nhiều lông tơ. Khi mang luộc, hấp, rang lên hoặc cho vào lò nướng chín sẽ toả ra một hương thơm tự nhiên vô cùng cuốn hút. Thử tưởng tượng mà xem, trong một ngày đông lạnh giá thế này, nhất là khi bụng đang đói đói và cần một món ăn vặt cho bữa xế, lại ngửi thấy mùi hạt dẻ thơm lừng thì thèm thuồng biết bao.
Lạp xưởng hun khói
Lạp sườn và thịt hun khói là hai món ăn truyền thống lâu đời của người Cao Bằng được nhiều người ưu thích. Cách chế biến món lạp sườn trải qua nhiều công đoạn, trước tiên đem lòng lợn (lòng non) rửa sạch nhiều lần bằng nước muối loãng, cuối cùng là rửa bằng rượu. Sau khi làm vệ sinh sạch sẽ, lòng lợn được phơi khô rồi thổi hơi vào trở thành bong bóng, để làm vỏ bao bọc bên ngoài. Nhân lạp sườn được làm bằng thịt thăn, thịt vai hoặc thịt mông lợn. Để lạp sườn ngon, khâu chọn thịt vô cùng quan trọng. Thịt lợn phải có màu đỏ thẫm, mỡ trắng trong, bóng, bì mỏng và một màu. Thịt được chọn từ lúc còn nóng (lợn vừa mổ).
Tất cả được rửa bằng nước muối loãng, thái miếng nhỏ và tẩm ướp gia vị, cùng chút rượu để làm chất lên men, rồi nhồi vào lòng non để trở thành lạp sườn. Công đoạn tiếp theo là phơi khô khoảng ba nắng rồi treo lên nóc bếp, khói và hơi nóng của bếp lửa làm cho miếng thịt săn hơn và ngon hơn.
Hương vị lạp sườn Cao Bằng có những điểm khác biệt không nơi nào có được. Đó là lạp sườn tươi, có vị ngon đậm đà của thịt nạc vai ướp các loại gia vị, vị chua chua, thơm ngậy của thịt hun khói và lá, quả mác mật, thêm một chút vị thơm của củ gừng núi, dai dai của vỏ lòng non bào mỏng và đặc biệt là không dùng chất bảo quản.
Mận Bảo Lạc
Các vùng miền ở Cao Bằng đều trồng mận nhưng huyện Bảo Lạc là địa phương trồng được loại mận ngon nhất.
Mận Bảo Lạc khi chín có màu đỏ (được người dân địa phương gọi là mận máu), vỏ nhẵn bóng, to bằng đầu ngón chân cái, khi ăn có vị ngọt dịu. Không chua là đặc điểm riêng biệt của loại mật này.
Lê Đông Khê
Lê Đông Khê là cây ăn quả dài ngày. Nếu nắm chắc kỹ thuật trồng và chăm bón, sau khi trồng khoảng 6 – 7 năm, cây lê bắt đầu bói quả. Tuổi khai thác của giống lê Đông Khê rất cao, kéo dài tới vài chục năm, thậm chí trồng ở vùng đất tốt có thể cho hoạch hàng trăm năm. Theo thống kê, tổng diện tích lê tại Cao Bằng hiện nay là 131,81ha, trong đó có 82,24ha cho thu hoạch với năng suất 3,18 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 260 tấn.
Tại Cao Bằng, cây lê được trồng chủ yếu ở các huyện Thạch An, Trà Lĩnh, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Hà Quảng… Trong đó Lê Đông Khê được trồng ở Thạch An là nổi tiếng nhất. Nó là loại lê ngon nhất trong các loại lê ở Cao Bằng. Lê Đông Khê có vị ngọt, thơm và chát đặc trưng. Quả lê to, khi ăn cảm nhận vị ngọt thanh mềm nhưng lại giòn. Quả Lê chứa nhiều thành phần dinh dưỡng, có lợi cho tiêu hóa và sức khỏe
Bánh khảo
Bánh khảo Cao Bằng được làm nhiều nhất vào dịp tết và được xem như một thứ kẹo tết của người dân tộc Tày. Cứ độ 20 tháng chạp, các nhà trong bản lại rục rịch làm bánh khảo đón Tết Nguyên đán. Với người Tày, tết mà không có bánh khảo thì chẳng là tết nữa.
Để lâu mà vẫn giữ được hương vị thơm ngon, không bị mốc, thiu nên bánh khảo tựa như một thứ lương khô ngọt ngào của người Tày. Họ làm bánh khảo thay kẹo, để ăn tết, mời khách tới thăm nhà. Để có được những phong bánh khảo thơm phức phải trải qua thật nhiều công đoạn. Nào là chọn gạo nếp, rang gạo, xay nhỏ bằng cối đá, đổ bột vào cái mẹt lót giấy đem hạ thổ.
Bánh khảo từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Cao Bằng để lên bàn thờ cúng ông bà tổ tiên và đãi khách đầu năm mới, ngày lễ, tết. Đôi vợ chồng mới cưới ngày đầu năm về thăm bên ngoại, ngoài đồ lễ chẳng thể thiếu gói bánh khảo.
Một số điều lưu ý khi du lịch Cao Bằng
Có một vài phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng mà các bạn cần biết để tránh các điều kiêng kị. Hãy tham quan một cách có văn mình và luôn tôn trọng văn hoá của những dân tộc ở Cao Bằng bạn nhé!
Thác Bản Giốc (Ảnh: Thành Luân)
Lịch trình đi phượt Cao Bằng
Đây là một số lịch trình đi phượt Cao Bằng kết hợp cùng các điểm du lịch kế cận như Hà Giang, Mẫu Sơn, Hồ Ba Bể. Hầu hết các lịch trình này các bạn nên mang theo xe máy và chạy từ Hà Nội bởi đường đi và đường về sẽ không giống nhau.
Hà Nội – Pác Bó – Cao Bằng – Bản Giốc – Hà Nội
Lịch trình này các bạn có thể lựa chọn phương án đi xe giường nằm Hà Nội Cao Bằng, lên tới nơi thì thuê xe máy ở Cao Bằng rồi sau đó đi khám phá các địa danh du lịch hấp dẫn ở Cao Bằng. Ngoài ra nếu không muốn thuê xe máy, các bạn có thể đi hoàn toàn bằng xe buýt đến các địa điểm này.
Ngày 0: Đi xe giường nằm Hà Nội – Cao Bằng
Ngày 1: Tp Cao Bằng – Pác Bó – Tp Cao Bằng
Dành hẳn 1 ngày để đi Pác Bó, tối quay lại Tp Cao Bằng nghỉ ngơi, khám phá ẩm thực và các món ăn ngon ở Cao Bằng
Ngày 2: Tp Cao Bằng – Thác Bản Giốc
Sáng từ Tp Cao Bằng đi Thác Bản Giốc, thiền viện Trúc Lâm, chiều tối quay lại Tp Cao Bằng, tối muộn lên xe về Hà Nội.
Hà Nội – Ba Bể – Cao Bằng – Bản Giốc
Lịch trình này các bạn đi từ Hà Nội theo hướng Quốc lộ 3 đi Thái Nguyên Bắc Cạn, ghé qua hồ Ba Bể, chạy xuyên qua Đèo Gió, Đèo Giàng rồi lên Tp Cao Bằng. Các bạn có thể kết hợp thêm một vài lịch trình phượt Thái Nguyên cho đẹp
Ngày 1: Hà Nội – Ba Bể
Từ Hà Nội khởi hành đi Bắc Kạn rồi ghé vào Ba Bể, dọc đường đi nếu muốn bạn có thể ghé qua một số địa điểm du lịch ở Thái Nguyên. Tối ngủ tại Ba Bể, có thể lựa chọn ở các homestay ở bản Pác Ngòi
Ngày 2: Ba Bể – Tp Cao Bằng – Pác Bó – Tp Cao Bằng
Sáng từ Ba Bể khởi hành đi Tp Cao Bằng, đến nơi các bạn có thể lựa chọn một nơi để nghỉ buổi tối. Từ đây tiếp tục đi Pác Bó, tham quan xong thì lại quay lại ở Tp Cao Bằng nhé.
Ngày 3: Tp Cao Bằng – Trùng Khánh – Thác Bản Giốc
Từ Tp Cao Bằng đi thẳng lên Thác Bản Giốc, có thể ghé qua cửa khẩu Tà Lùng, thăm một số mốc biên giới ở Cao Bằng. Tiếp đó đi lên Trùng Khánh ghé động Ngườm Ngao, Thiền viện Trúc Lâm rồi đi Thác Bản Giốc. Chiều từ đây quay lại Tp Cao Bằng để nghỉ ngơi.
Ngày 4: Trùng Khánh – Cao Bằng – Hà Nội
Ngày này khởi hành sớm từ Tp Cao Bằng quay về Hà Nội
Hà Nội – Mẫu Sơn – Bản Giốc – Ba Bể – Hà Nội
Lịch trình này kết hợp đi du lịch Lạng Sơn rồi mới qua Cao Bằng, sau đó sẽ về Hà Nội qua đường Bắc Kạn – Thái Nguyên, tạo thành 1 cung đường tròn
Ngày 1: Hà Nội – Lạng Sơn – Mẫu Sơn
Ngày đầu tiên, xuất phát từ Hà Nội các bạn đi theo đường Lạng Sơn rồi đi tiếp lên đỉnh Mẫu Sơn, tối ngủ tại Mẫu Sơn
Ngày 2: Mẫu Sơn – Thất Khê – Tp Cao Bằng – Trùng Khánh
Buổi sáng có thể dành chút thời gian khám phá đỉnh Mẫu Sơn, tiếp đó các bạn từ Mẫu Sơn đi Đồng Đăng rồi sang Thất Khê để đi Cao Bằng. Dọc đường này có một số địa điểm du lịch ở Lạng Sơn như Bia Thuỷ Môn Đình, cửa khẩu Hữu Nghị, Đền Mẫu Đồng Đăng mà các bạn có thể sắp xếp ghé thăm luôn. Qua Tp Cao Bằng các lên thẳng Trùng Khánh để hôm sau đi Bản Giốc cho tiện nhé.
Ngày 3: Trùng Khánh – Thác Bản Giốc – Động Ngườm Ngao – Tp Cao Bằng – Quốc lộ 3 – Hồ Ba Bể
Ngày này các bạn dạo chơi Thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, một số địa điểm du lịch gần đó rồi khoảng đầu giờ chiều đi ngược theo QL 3 về Ba Bể, tối ngủ Ba Bể
Ngày 4: Ba Bể – Hà Nội
Dành khoảng nửa ngày để khám phá Ba Bể rồi sau đó từ đây đi ngược về Hà Nội
Hà Nội – Hà Giang – Bảo Lạc – Nguyên Bình – Ba Bể – Hà Nội
Lịch trình này các bạn chủ yếu đi du lịch Hà Giang nhưng kết hợp đi thêm một phần Cao Bằng là khu vực Nguyên Bình, Pia Oắc rồi đi qua Ba Bể về Hà Nội. Lịch trình này chạy xe máy hoàn toàn và hơi dài, các bạn cân nhắc khi chạy.
Ngày 1: Hà Nội – Hà Giang – Quản Bạ
Ngày này các bạn chạy theo hướng Quốc lộ 2 đi Vĩnh Phúc, Tuyên Quang rồi lên tới Hà Giang. Từ Tp Hà Giang các bạn di chuyển tiếp rồi dừng lại tại Quản Bạ, chọn một số nhà nghỉ ở Tam Sơn rồi nghỉ lại.
Ngày 2: Quản Bạ – Yên Minh – Đồng Văn
Các bạn xem thêm thông tin ở bài các địa điểm du lịch Hà Giang để biết những địa điểm nào nên dừng lại chơi trên cung đường này. Bật mí là nếu chuyến đi kéo dài có thể làm 1 tour phượt sang Hà Giang nữa sẽ có nhiều trải nghiệm thú vị hơn nữa.
Ngày 3: Đồng Văn – Mã Pì Lèng – Mèo Vạc – Bảo Lạc – Nguyên Bình – Ba Bể
Ngày này các bạn sẽ chạy xuyên 3 tỉnh là Hà Giang – Cao Bằng – Bắc Kạn. Tổng quãng đường vào khoảng 280km. Sẽ đi qua đèo Mã Pì Lèng, một trong tứ đại đỉnh đèo miền Bắc. Tiếp đến các bạn sẽ đi sang Bảo Lạc, Bảo Lâm rồi về Nguyên Bình của Cao Bằng. Trên đường đi sẽ qua khu vực Pia Oắc sẽ có cơ hội ghé một vài biệt thự bỏ hoang được xây dựng từ thời Pháp. Tối các bạn sẽ nghỉ ngơi ở Ba Bể
Ngày 4: Ba Bể – Hà Nội
Các bạn có thể dành khoảng nửa ngày để khám phá du lịch Ba Bể, sau đó từ Ba Bể các bạn đi ngược theo Quốc lộ 3 về Hà Nội
Xem thêm: Kinh nghiệm đi phượt Thác Bản Giốc
Discussion about this post