Đền Hùng là một quần thể du lịch đền chùa nổi tiếng có từ lâu đời ở Phú Thọ. Đây là nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt. Đặc biệt vào dịp 10/3 âm Giỗ tổ hàng năm, nơi đây thu hút một lượng lớn khách du lịch tới làm lễ, dâng hương tưởng nhớ các vị đã có công dựng nước thủa xưa. Vào các dịp đầu năm mới và nhất vào ngày giỗ tổ thì nơi đây lại đón hàng triệu người con Đất Việt tới du lịch Đền Hùng. Hãy cùng RuudNguyen.com giới thiệu tới các bạn điểm du lịch hấp dẫn này nhé.
Giới thiệu chung về Đền Hùng
Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Quốc Tổ của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông lớn giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng.
Dù ai đi ngược về xuôi; Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba (Ảnh sưu tầm)
Phía đông với các dãy núi non trung điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù xa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung đột bộ lạc.
Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã ba Bạch Hạc – Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học đo là minh chứng một thời đại, với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông nghiệp, đã từng tồn tại trược công nguyên hàng nghìn năm.
Cứ vào ngày mùng 10/3 hàng năm là ngày Giỗ tổ của các vị vua Hùng, Khu di tích Đền Hùng lại tổ chức rất nhiều các hoạt động, lễ hội như Lễ rước kiệu vua, lễ dâng Hương quy tụ sự tham gia của rất nhiều người dân từ mọi miền Tổ Quốc để bày tỏ lòng thành với các vị vua xưa. Nét văn hóa độc đáo này đã trở thành một phần đặc biệt không thể thiếu trong đời sống tâm linh của con người Việt Nam:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Đi du lịch Đền Hùng vào thời gian nào?
Thời điểm thích hợp nhất để đi du lịch đền Hùng là vào dịp đầu xuân. Lúc này thời tiết tương đối chan hòa, mát mẻ. Đây cũng là thời điểm diễn ra rất nhiều các lễ hội lớn. Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm được tổ chức vào ngày 10/3 (Âm lịch), đây là dịp phù hợp để đến Phú Thọ tham quan Đền Hùng.
Đến Đền Hùng vào dịp lễ Giỗ Tổ, các bạn cần nhớ là dịp này rất rất đông (Ảnh sưu tầm)
Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là lượng khách du lịch đổ về đây trong những ngày Giỗ Tổ vô cùng lớn, nếu ở xa đến Phú Thọ, các bạn cần lưu ý đặt phòng trước thật sớm bởi càng sát ngày thì việc tìm phòng càng khó khăn hơn rất nhiều.
Hướng dẫn đi tới Đền Hùng
Phương tiện cá nhân
Với xe máy hoặc oto cá nhân thì có hai cung đường để bạn có thể lựa chọn:
- Cung đường 1: Các bạn đi theo đường ra sân bây Nội Bài qua cầu Thăng Long. Đến khu vực đường Quốc lộ 2, mọi người đi tiếp tới Cầu Việt Trì. Qua trung tâm thành phố, mọi người rẽ trái tầm 10 kilomet nữa là tới Đền Hùng.
- Cung đường 2: Bạn đi theo đường quốc lộ 32 tới Ba Vì (Sơn Tây). Đến cầu Trung Hà thì tiếp tục di chuyển tới Cầu Phong Châu. Qua Phong Châu, tiếp tục đi thẳng là đến đền Hùng.
Phương tiện công cộng
Đường sắt
Nếu đi Đền Hùng các bạn có 2 lựa chọn. Xuống ga Việt Trì rồi đi bộ ra đường Hùng Vương để bắt xe buýt số 19, tuyến buýt này sẽ đi ngang qua gần Đền Hùng. Xuống ga Tiên Kiên (Lâm Thao) rồi đi xe ôm hoặc taxi vào Đền Hùng (từ đây vào đền Hùng còn khoảng 4km).
Từ ga Hà Nội có 2 chuyến tàu có dừng ở ga Việt Trì là tàu YB3 và tàu SP3. Tàu YB3 xuất phát từ Hà Nội lúc 6h10 và đến Việt Trì lúc 8h20. Tàu SP3 xuất phát từ Hà Nội lúc 22h và có mặt ở Việt Trì lúc 23h50. Dừng ở ga Tiên Kiên chỉ có tàu YB3 lúc 8h55.
Đường bộ
Từ Bến xe Mỹ Đình hàng ngày có rất nhiều các tuyến xe đi tới các huyện của Phú Thọ, các bạn có thể thoải mái lựa chọn nhà xe phù hợp với lịch trình của mình. Nếu muốn đi Đền Hùng bằng xe khách, các bạn chỉ cần lựa chọn các nhà xe có lộ trình đi Thị xã Phú Thọ, các xe này sẽ đi ngang qua cửa Đền Hùng.
Đi lại ở Đền Hùng
Khu di tích Đền Hùng có sẵn dịch vụ vận chuyển bằng xe điện từ các bãi xe đến cổng Đền Hùng và các địa điểm khác trong quần thể. Giá dịch vụ khá hợp lý, nếu đi đông người các bạn cũng có thể thuê nguyên chuyến xe để chủ động hơn trong việc di chuyển.
Xe điện phục vụ du khách tại trung tâm lễ hội Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Lưu trú khi du lịch Đền Hùng
Thường thì với Đền Hùng, du khách thường chỉ đi trong ngày rồi về luôn. Trong trường hợp các bạn ở những địa phương tương đối xa với Phú Thọ, hoặc muốn lên Đền Hùng từ tối hôm trước ngủ lại thì các bạn có thể lựa chọn những khách sạn nhà nghỉ ở Việt Trì và thưởng thức các món ẩm thực Phú Thọ.
Các địa điểm tham quan khi đến Đền Hùng
Cổng đền
Cổng đền được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh vào năm Khải Định thứ 2 (1917), dạng vòm cuốn, cao 8,5m, gồm 2 tầng, 8 mái… Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Mặt trước của cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hình hổ phù.
Cổng vào Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Đền Hạ
Đền Hạ: được xây dựng lại trên nền cũ, vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII, kiểu chữ “nhị”, gồm tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m, kiến trúc đơn sơ, kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí, mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Đền Hạ trong quần thể di tích Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Tương truyền rằng nơi đây, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang theo 49 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Vương.
Nhà bia
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Chùa Thiên Quang
Chùa xưa có tên gọi là ” Viễn Sơn Cổ Tự ” sau đổi thành ” Thiên Quang Thiền Tự “. Chùa được xây dựng vào thời Trần đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời Nguyễn chùa được đại trùng tu. Hiện nay chùa có kiến trúc kiểu chữ công (I) gồm ba toà tiền đường (5 gian) Tam bảo (3 gian) và Thượng điện (3 gian) các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột, kèo suốt cài nóc. Phía ngoài có hành lang xây xung quanh. Mái chùa lợp ngói mũi có đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt.
Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa.
Trước cửa chùa có cây Vạn tuế có tuổi gần tám trăm năm. Nơi đây ngày 19/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác đã ngồi làm việc bên gốc cây Vạn Tuế.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)
Có tên Hùng Vương Tổ miếu. Đền được xây dựng vào thời Lý – Trần. Đến thế kỷ XV bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại, kiến trúc hiện nay kiểu chữ nhất (-) 3 gian, kiến trúc đơn sơ không có cột, kèo cầu quá giang cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói mũi.
Đền Trung (Ảnh sưu tầm)
Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh dầy.
Đền Thượng
(Kính Thiên lĩnh điện) được xây dựng trên nền cũ của ngôi miếu thờ thần núi, thần lúa, Thánh Gióng…, là nơi các vua Hùng thường tiến hành các nghi thức cầu khấn trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc.
Trên Đền Thượng (Ảnh sưu tầm)
Có tài liệu cho rằng đền Thượng được xây dựng vào thế kỷ XV, hiện đền có ba gian, mái ngói đầu đao cong. Cửa đền có bức hoành phi: Nam Việt Triệu Tổ (Tổ muôn đời của nước Việt Nam), trong đền có bức đại tự: Tử Tôn Bảo Chi (Con cháu phải giữ gìn lấy). Ngoài ra còn có rất nhiều câu đối ca ngợi công đức của các bậc Thánh Tổ. Ban thờ trong đền có bài vị của 18 đời vua Hùng (Hùng đồ thập bát thế Thánh vương Thánh vị) và ba vị thần núi: Đột Ngột Cao Sơn (núi Nghĩa Lĩnh), Áp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), hai bên trước cửa đền là hai cột đá, tương truyền do An Dương Vương dựng lên, thề muôn đời gìn giữ giang sơn gấm vóc họ Hùng.
Lăng Hùng Vương
Tương truyền là mộ vua Hùng thứ 6, trước khi chết có dặn hãy chôn ta trên núi Cả để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu.
Lăng Hùng Vương (Ảnh sưu tầm)
Xưa là mộ đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây Lăng Mộ, thời Khải Định năm thứ 2 (1922) được đại trùng tu như ngày nay.
Đền Giếng (Ngọc Tỉnh)
Nằm dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, được làm chùm lên giếng Ngọc, tương truyền nơi đây xưa kia hai con gái vua Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa thường đến soi bóng, chải tóc. Đền Giếng được xây dựng vào thế kỷ XVIII với ba nếp nhà song song, hai nhà oản hai bên.
Giếng Cổ ở khu di tích Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Tên chữ là Ngọc Tỉnh. Tương truyền là nơi hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người có công dậy dân trồng lúa, trị thuỷ nên nhân dân lập đền thờ.
Đền Tổ mẫu Âu Cơ
Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn (Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn), thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn.
Đền Tổ Mẫu Âu Cơ (Ảnh sưu tầm)
Đứng trên đỉnh núi Vặn có thể bao quát một vùng rộng lớn sơn thuỷ hữu tình. Phía trước núi Vặn là núi Hùng, nơi thờ tự các vua Hùng. Núi Hùng trông xa giống như đầu con rồng lớn, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn ở phía sau. Bên tả có dòng sông Hồng, bên hữu có dòng sông Lô tựa như hai dải lụa đào, bao bọc lấy ba ngọn “Tổ Sơn” ở giữa. Phía sau núi Vặn là những dãy đồi lớn san sát như bát úp, gắn với truyền thuyết “Trăm voi chầu về Đất Tổ”. Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội.
Bảo tàng Hùng Vương
Tọa lạc trên một quả đồi thuộc xã Hy Cương – thành phố Việt Trì, cách cổng đền Hùng chừng 100m, Bảo tàng “quốc gia” Hùng Vương là một kiến trúc có thiết kế 2 tầng với gần 1.000m² diện tích xây dựng, tuy hiện đại nhưng vẫn không thiếu tính dân tộc, vừa đường bệ lại vừa trang nhã, thanh thoát… Đây là công trình được thiết kế bởi Hội Kiến trúc sư Việt Nam dựa trên thế giới quan của người Việt cổ với quan niệm trời tròn – đất vuông. Đứng từ đỉnh núi Nghĩa Lĩnh nhìn xuống, Bảo tàng như một chiếc hộp vuông khổng lồ gợi liên tưởng đến sự tích bánh Chưng, bánh Dầy trong huyền sử dân tộc Việt.
Bảo tàng Hùng Vương ở khu di tích Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Bảo tàng Hùng Vương là một trong những bảo tàng đẹp, khang trang, bề thế nhất của khu vực các tỉnh phía Bắc. Hiện nay Bảo tàng có hơn 11.000 hiện vật gốc phản ánh lịch sử hình thành, phát triển của tỉnh Phú Thọ từ thời Tiền – Sơ sử đến nay.
Thiết kế không gian trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương gồm 3 tầng. Phần trưng bày cố định (thường trực) tại tầng 2 và tầng 3 có diện tích 4.100 m2 .
Với gần 2.000 hiện vật gốc được trưng bày thành 05 chủ đề chính chạy xuyên suốt tiến trình lịch sử tỉnh Phú Thọ từ thời kỳ Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh:
Các địa điểm khác ở Việt Trì
Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân
Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ). Nơi đây không chỉ gắn liền với truyền thuyết “con rồng cháu tiên” mà còn nổi tiếng bởi sự trang nghiêm, hoành tráng của ngôi đền, bởi địa thế đắc địa trong phong thủy “sơn chầu thủy tụ”.
Đền thờ Lạc Long Quân (Ảnh sưu tầm)
Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được khởi công xây dựng tại đồi Sim 26/3/2007, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1km, nơi có vị trí đắc địa, có thế “sơn chầu thủy tụ”. Đền có tổng diện tích 13ha, trên ngọn đồi có hình thế giống một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển biểu hiện sự linh thiêng, huyền bí với nhiều hạng mục công trình: Cổng tam quan, cổng biểu tượng, sân hành lễ, phương đình, tả vu, khu đền thờ chính.
Khu đền thờ chính có diện tích 210m², gồm tiền tế, đại bái và hậu cung; bên trong nội thất được làm gỗ lim và sơn son thếp vàng; mái lợp ngói mũi hài, nền lát bằng gạch Bát Tràng, bó vỉa đá xanh. Hậu cung của đền đặt tượng thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân bằng đồng nặng 1,5 tấn, cao 1,98m; Đức Quốc Tổ ngồi trên ngai, dáng vẻ uy nghiêm, được đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là tượng Lạc hầu và Lạc tướng ở tư thế đứng có chiều cao 1,80m, mỗi pho nặng 0,5 tấn; trong đền cũng được treo trang trọng hai bức phù điêu “Quốc Tổ Lạc Long Quân cùng 50 người con xuống biển” và “Quốc Mẫu Âu Cơ cùng 50 người con lên non”. Đền được xây dựng năm 2007 và hoàn thành năm 2009, tuy nhiên kiến trúc lại dựa hoàn toàn theo lối truyền thống.
Bước vào đền, du khách phải đi qua chiếc cầu bắc qua hồ Hóc Trai; bên dưới hồ thả cá chép vàng trông thật hài hòa, sinh động. Cổng Tam quan, còn được gọi là nghi môn, gồm 4 cột đá xanh chạm họa tiết hoa văn bốn mặt; bên trong là cổng biểu, được xây dựng như một mái nhà với các họa tiết trang trí mô phỏng theo hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cách điệu như: hình ảnh người giã gạo, chim lạc… càng làm tôn thêm sự uy nghiêm, linh thiêng của ngôi đền. Hai bên sân đền là nhà tả vu, hữu vu xây dựng 5 gian, khung gỗ lim, lợp ngói mũi hài.
Tương truyền, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai. Để gây dựng giang sơn, 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua, hiệu là Hùng Vương, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng. Tương truyền có 18 đời vua đều gọi là Hùng Vương. Lạc Long Quân được xem như Quốc Tổ của dân tộc Việt Nam và được người đời vô cùng sùng bái, tôn kính.
Ngày nay, đến Khu di tích lịch sử Đền Hùng, du khách sẽ được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ trước, sau đó thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng. Việc quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa ấy trong cùng một khu vực càng thể hiện sâu sắc đạo hiếu “uống nước nhớ nguồn” của con dân đất Việt.
Thiên cổ miếu
Thiên Cổ Miếu là tên gọi của ngôi đền nằm trên một quả đồi nhỏ ven đường thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì. Ngôi đền cổ miếu nằm ẩn mình dưới hai cây táu cổ thụ, gốc to đến năm, sáu người ôm không xuể. Dù chỉ có một gian nhưng ngôi đền khiến khách qua đường không thể không chú ý bởi nét trầm mặc, vẻ cổ kính và còn bởi đôi câu đối ở trong đền:
“Hùng lĩnh trung chi thắng tích
Nam thiên chính khí linh từ”
(Đại ý: Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam).
Thiên Cổ Miếu (Ảnh sưu tầm)
Nằm trong địa phận của kinh đô Văn Lang xưa, đền Thiên Cổ uy nghiêm ngự trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là ngôi đền thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, người thầy giáo đầu tiên của dân tộc đã có công dạy dỗ hai công chúa Tiên Dung – Ngọc Hoa con vua Hùng Vương thứ 18.
Sự độc đáo của hai cây cổ thụ ước đoán tuổi đời đã đến nghìn năm và tầm vóc của đôi câu đối phần nào đã được hé lộ trong bản sắc phong và ngọc phả mà người dân thôn Hương Lan vẫn còn giữ được…
Tương truyền, thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên kinh đô Văn Lang dạy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai người tạ thế cùng một giờ, một ngày mồng 2 tháng 2 năm Quý Dậu (năm 228 trước Công nguyên). Đến nay phần mộ của hai vợ chồng thầy cô vẫn còn được nhân dân giữ gìn và bảo vệ cẩn thận ở trong ngôi đền. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, ngôi đền vẫn được người dân thôn Hương Lan, xã Trưng Vương hết lòng bảo vệ.
Đền Tam Giang – Chùa Đại Bi
Đền Tam Giang – chùa Đại Bi tọa lạc trên địa thế đắc đạo ngã ba sông thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, Phú Thọ, tĩnh lặng bên dòng sông Lô cuồn cuộn. Tuy thời điểm xây dựng đền và chùa có khác nhau và trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay đền Tam Giang – chùa Đại Bi trở thành một cụm di tích hoàn chỉnh, thống nhất, là một trong những điểm du lịch danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia được nhiều khách thập phương trong và ngoài tỉnh thường xuyên viếng thăm.
Chùa Đại Bi trong di tích đền chùa Tam Giang (Ảnh sưu tầm)
Trong số các cảnh đẹp Phú Thọ cổ xưa, trải qua bao thế kỷ, đền Tam Giang – chùa Đại Bi đã qua nhiều lần trung tu, tôn tạo vẫn giữ được vóc dáng và kiến trúc đẹp. Nằm trong khuôn viên rộng hơn 1000m2, ngôi đền có vị trí đắc địa (điểm hợp giang của ba con sông hay còn gọi là tam giang), phía trên là trời mây thoáng đãng, xung quanh là non nước bao la, phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Ngôi đền quay ra sông, nhìn theo hướng Tây Bắc thấy núi Nghĩa Lĩnh – nơi thờ các đức Quốc tổ Hùng Vương. Với lối kiến trúc “tiền thần, hậu phật”, đền gồm 2 tòa tiền tế và hậu cung, nhà bốn mái, đao cong, nội thất chạm trổ các bộ tứ quý: “Long, ly, quy, phượng”, “tùng, cúc, trúc, mai”. Các nét chạm trổ hết sức tinh tế làm toát lên vẻ linh thiêng, hoàn mỹ. Trong đền lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lich sử, văn hóa, thẩm mỹ cao như bia đá “Hậu thần bia ký” (năm 1818); chuông đồng “thông thánh quán chung ký” (niên đại 1830). Đặc biệt quý giá là những bài minh chuông gắn liền với ngôi đền đó là thác bản chuông “Thông Thánh Quán” (năm 1321, đời vua Trần Minh Tông) và “Phụng Thái Thanh từ” (niên đại Gia Long năm thứ 17).
Làng cổ Hùng Lô
Làng cổ Hùng Lô chỉ cách Đền Hùng chừng 10 km. Trải qua bao biến thiên, thăng trầm lịch sử, nơi đây vẫn bảo tồn được gần như nguyên vẹn kiến trúc ngôi đình cổ, di tích lịch sử cấp quốc gia đã được công nhận từ năm 1990.
Làng cổ Hùng Lô (Ảnh sưu tầm)
Tương truyền, đây vốn là nơi Vua Hùng cùng công chúa và các quần thần dừng chân nghỉ ngơi trong một chuyến du ngoạn. Vua thấy nơi này trù phú, cây cối tốt tươi, lại có khí thiêng từ lòng đất bốc lên nên cho đây là chốn địa linh. Sau này, dân làng đã dựng miếu thờ Vua Hùng để đời đời nhớ ơn Vương tổ. Đến thời vua Lê Hy Tông, đình bắt đầu được xây dựng, hướng về núi Nghĩa Lĩnh.
Đình Hùng Lô
Đình Hùng Lô là quần thể di tích lịch sử văn hóa được xây trên dải đất rộng, gồm nhiều hạng mục công trình như: tòa Đại đình, Phương Đình, Lầu Chuông, Lầu Trống, Nhà tiền tế… Tất cả đều được xây dựng bằng những loại gỗ quý như đinh, lim, sến, táu… Tòa Đại đình được cấu trúc theo kiến trúc truyền thống ba gian, hai chái; cả ba gian đều có bàn thờ.
Đình Hùng Lô là nơi diễn ra nhiều các hoạt động văn hóa (Ảnh sưu tầm)
Các gian tiền tế được xây theo cấu trúc năm gian, hai chái. Hai bên đình là nhà thờ Phật và bệ thờ Thần Nông. Ngoài ra, quần thể di tích còn có khu Văn chỉ thờ Khổng Tử, cũng là nơi ghi danh truyền thống hiếu học của nhân dân Hùng Lô; nhà Yến Lão là nơi các bậc cao niên dự việc làng và hiện là nơi sinh hoạt, hội họp của những người cao tuổi. Khu sân đình được bài trí thoáng rộng với hòn non bộ, cây si, cây đa rủ bóng…
Một điểm đặc sắc đáng lưu ý nữa, đình Hùng Lô rất nổi tiếng về truyền thống trong lễ hội rước kiệu Đền Hùng từ xưa đến nay. Năm Mậu Ngọ (1918), đình Hùng Lô đã được thưởng “Kỷ niệm Hùng Vương đệ nhất hội”; hiện nay, biển thưởng này vẫn được trang trọng lưu giữ trong đình. Vào dịp lễ hội Đền Hùng hằng năm, đến đình Hùng Lô, du khách sẽ được hòa mình trong lễ rước kiệu quy mô rất hoành tráng của trên 200 nam trung, đi đến đâu náo động cả một vùng đến đó. Cuộc rước sẽ đi từ đình làng đến Đền Hùng; trở về từ Đền Hùng, các lễ tế tại đình làng mới được tiến hành, sau cùng là thụ lễ tại nhà Yến lão.
Chùa Cát Tường
Đền Tiên Cát và Chùa Cát Tường nằm bên bờ sông Hồng thuộc khu phố Anh Dũng, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì. Đền Tiên thờ Mẫu Thần Long Hồng Đăng Ngạn- Hoàng Hậu nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ đẻ của Vua Lạc Long Quân. Người đã sát cánh cùng chồng trong buổi đầu dựng nước, trong việc dạy dỗ nhân dân và người đã được vua Kinh Dương Vương phong làm “Vi Cung Chính Khổn” thưởng cho cung Tiên Cát. Khi người mất nơi đây được chuyển thành Tiên Cát lăng được nhân dân trông nom gìn giữ suốt mấy nghìn năm.
Bên cạnh di tích Đền Tiên còn có chùa Cát Tường được xây dựng năm 1999, trùng tu lớn vào năm 2016- 2017. Chùa có tổng diện tích 7.000 m2 bao gồm nhà tam bảo, nhà tổ, nhà tăng, nhà chay đường, nhà khách… Lễ hội Đền Tiên diễn ra từ ngày mồng 9 đến ngày mồng 10 tháng 10 Âm Lịch theo nghi thức truyền thống, với phần nghi lễ: Tế lễ bao gồm 5 tuần (1 tuần hương, 1 tuần rượu, 1 tuần lễ vật, 1 tuần vật phẩm, 1 tuần đọc chúc và hóa chúc); Phần hội diễn ra tưng bừng, náo nhiệt với các trò chơi đấu cờ người, kéo co, chọi gà, hát Xoan… diễn ra suốt buổi chiều và có khi qua đêm đến hết ngày hôm sau.
Ăn gì khi du lịch Đền Hùng
Bánh tai Phú Thọ
Bánh Tai có từ thời xa xưa của làng Phú Thọ, bánh có tên gọi khác là bánh Hòn. Bánh có hình dạng giống cái tai, được làm từ gạo tẻ, nhân thịt lợn với công thức và những nguyên liệu đặc biệt khác, và không phải ai cũng làm được chiếc bánh Tai giếng Thánh đúng chuẩn hương vị đặc biệt vốn có.
Bánh tai, món đặc sản mảnh đất Phú Thọ (Ảnh sưu tầm)
Bánh tai là món ăn không còn xa lạ với những người con của thị xã Phú Thọ từ nhiều năm nay, đặc biệt là món bánh tai có truyền thống hơn 5 đời của gia đình cụ Nguyễn Thị Định ở phố Bạch Đằng, phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ
Thịt chua Thanh Sơn
Thịt chua là vốn là món ăn truyền thống của người Mường vùng Thanh Sơn – Phú Thọ. Ngày xưa người dân ở đây thường nghĩ ra cách muối Thịt chua nhằm bảo quản thịt được lâu hơn và dần dần món Thịt chua trở nên phổ biến và trở thành đặc sản của người dân huyện miền núi này.
Thịt chua Thanh Sơn, loại được đặt trong ống nứa (Ảnh sưu tầm)
Ngày nay, khi xã hội phát triển, người dân Thanh Sơn đã cải tiến món Thịt chua bằng cách thái mỏng thịt và ướp thêm gia vị vừa vặn hơn trộn với thính để lên men và tạo thành món đặc sản Thịt chua Thanh Sơn như bây giờ.
Vậy quy trình để làm nên món Thịt chua ngon tuyệt này là như thế nào? Câu trả lời đã có trong chương trình Nông nghiệp sạch số 25. Trong số phát sóng này, món đặc sản Thịt chua đã được chính người dân Thanh Sơn tái hiện lại một cách tỉ mỉ.
Cọ ỏm
Những chùm quả chín già, bóng, dai trĩu mời gọi. Người dân đi thu quả về, chọn những quả tròn, đầy, đều để làm cọ ỏm. Người Phú Thọ có con mắt chọn quả tinh tường, chọn quả nào là quả đó ngon thơm, chứ du khách thập phương khó phân biệt được quả ngon, quả chưa ngon, quả nếp, quả tẻ.
Món cọ ỏm ở Phú Thọ (Ảnh sưu tầm)
Cọ được chọn đem xóc trộn để cạo bỏ lớp vỏ ngoài, rồi đem rửa sạch, luộc chín. Luộc cọ nghe thì đơn giản, nhưng không khéo thì cọ sẽ không ngon. Khi nước sôi liu riu, cho cọ vào, đậy vung đun nhỏ lửa, để nước sôi lăn tăn. Dầu cọ từ quả phôi ra, nổi váng trên mặt nước, bám vào thành nồi, khi ấy cọ đã chín. Nếu không đúng phần lửa, phần nước, quả cọ sẽ chát và cứng, khó ăn.
Bánh làng Dòng
Bánh chưng được gói từ gạo nếp cái hoa vàng, dẻo thơm đậm đà hương vị; bánh nẳng được làm cầu kỳ từ gạo nếp với nước cốt các loại lá thơm, mầu đỏ đậm, có độ trong và dẻo, chấm với mật mía đem lại cho du khách cảm giác mát giọng, ngọt ngào; bánh gai dẻo mềm hương vị của lá gai, bùi béo của mứt sen trần, của lạc rang, của cùi dừa; bánh đúc giòn, đậm đà vị tương quê, thêm lạc rang bùi ngậy thơm nồng; bánh giày mịn màng, dẻo thơm, ngọt dịu…
Bánh chưng làng Dòng (Ảnh sưu tầm)
Để làm ra những chiếc bánh thơm ngon, người dân làng Dòng luôn chú ý chọn gạo tốt để làm bánh, cùng với đậu xanh, lá thơm, mật mía, lạc rang…dưới bàn tay khéo léo của những người phụ nữ đảm đang làng Dòng, đã tỉ mỉ tạo nênnhững chiếc bánh đậm đà như vậy.
Bánh sắn
Ngày xưa, khi kinh tế khó khăn, có rất nhiều “giai thoại” về bánh sắn. Thời bố mẹ mình còn trẻ thì món bánh sắn “sang chảnh” nhất là bánh sắn nhân đũa (tức là bánh sắn chỉ lấy cái đũa nén xuống rồi viên lại hấp chứ chẳng có cái gì làm nhân cả).
Bánh sắn Phú Thọ (Ảnh sưu tầm)
Lúc mình nhỏ thì bánh sắn bắt đầu có nhiều loại hơn, nhưng ngon nhất cũng chỉ có nhân đỗ xanh, mỡ hành trộn với tóp mỡ. Chỉ thế thôi mà những chiếc bánh thơm lừng cũng đủ làm xao xuyến hết thảy bọn trẻ con rồi. Khi mình lớn hơn, kinh tế của hầu hết các gia đình đều khá hơn thì mới có các loại bánh sắn nhân thịt, nhân đậu đỏ,…
Đặc sản Phú Thọ mua về làm quà
Tương Dục Mỹ
Tương là món chấm quen thuộc của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Giọt tương sóng sánh vàng, thơm đượm mùi nắng, mùi đỗ tương và gạo nếp đã theo bao lớp người lớn lên.
Làng nghề tương Dục Mỹ (Ảnh sưu tầm)
Làng Dục Mỹ, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nổi tiếng với nghề làm tương cổ truyền từ lâu. Tương ở đây được ủ chín đủ ngày có màu vàng hơi đỏ, vị thanh, không gắt, ngọt đậm mà không mặn.
Bưởi Đoan Hùng
Đoan Hùng là một huyện của tỉnh Phú Thọ, thuộc trung du Bắc Bộ, trên ngã ba của hai con sông sông Lô và sông Chảy. Nói đến Đoan Hùng, người ta thường nghĩ đến những đồi cọ, những đồi chè… và đặc biệt là một loại trái cây đặc biệt: bưởi Đoan Hùng.
Bưởi Đoan Hùng là đặc sản của Phú Thọ (Ảnh sưu tầm)
Đây phải là loại cây trồng lâu năm, có quả hình cầu dẹt, quả chưa đầy 1 kg, chín màu vàng sáng, vỏ hơi héo, cùi mỏng, múi ráo, tôm mọng nước, màu trắng ngà, đặc trưng bởi hương vị thơm, ngon, ngọt, mát. Giống bưởi đặc sản của Phú Thọ còn quý ở chỗ, có thể bảo quản được vài tháng đến nửa năm, khi bổ ra, ăn vẫn ngọt, ngon như thường!
Hồng Gia Thanh
Hồng Gia Thanh có nguồn gốc ở Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, được dân di thực về trồng tại các vườn hộ gia đình thuộc xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh ít nhất từ 50 – 70 năm trở lại đây, có những cây đã gần 70 tuổi. Hiện trên địa bàn huyện Phù Ninh đang có khoảng 50ha diện tích trồng Hồng mang lại thu nhập cho người dân.
Hồng không hạt Gia Thanh (Ảnh sưu tầm)
Đặc điểm của Hồng Gia Thanh là quả không có hạt, hình thoi cao thành chứ không tròn, tai vểnh lên, khi chín quả có màu vàng nhạt, ăn vị giòn, ngọt. hồng ngâm còn chứa nhiều vitamin tốt cho sức khỏe, là một món quà hấp dẫn cho những người con xa quê và du khách thập phương ghé thăm Phú Thọ được thưởng thức đặc sản vùng Đất Tổ.
Chè Phú Thọ
Ở tỉnh Phú Thọ, chè được trồng nhiều ở các huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Ba, Đoan Hùng, Hạ Hòa… nhưng một trong những nơi trồng chè nhiều và nhiều đồi chè đẹp, có nhiều cơ sở, công ty sản xuất, chế biến chè phải kể đến huyện Thanh Sơn, với diện tích hơn 3.000ha.
Chè Phú Thọ (Ảnh sưu tầm)
Riêng xã Long Cốc là nơi có nhiều đồi chè đẹp, ở đây có nhiều đồi chè hình bát úp; dưới chân đồi là những hợp tác xã sản xuất, chế biến chè; những hồ nước trong xanh mát lạnh; những con đường xuyên qua các đồi chè…
Một số lưu ý khi du lịch Đền Hùng
Trang phục: Tùy thời tiết nhưng về cơ bản các bạn nên mặc trang phục gọn nhẹ, thoải mái cho việc di chuyển.Nên sử dụng giày thể thao, loại có đế bám tốt. Nếu mùa hè thì có thể mang theo dép tổ ong cho tiện.Nếu đi vào mùa đông thì không nên mang theo những trang phục dày, hãy mặc thành nhiều lớp mỏng, trong quá trình di chuyển nếu nóng quá sẽ bỏ dần ra. Vừa không phải mang nặng, vừa vẫn giữ ấm được cơ thể. Có một điều cần nhớ, các bạn phải ăn mặc lịch sự, nếu trang phục không đảm bảo lịch sự, các bạn có thể bị từ chối vào Đền Hùng.
Dâng lễ: Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh (nhà nghiên cứu văn hóa dân gian) việc dâng lễ nên tùy vào duyên cảnh của mỗi người. Ngoài hai loại bánh mang biểu tượng của ngày giỗ Tổ là bánh chưng, bánh dày, mọi người cũng có thể dâng hương hoa hay lễ mặn là xôi – gà…Điều quan trọng chính là ở sự chân thành chứ không phải ở cái lễ.
Đặc sản Phú Thọ: Theo kinh nghiệm của những người thường xuyên đi lễ Đền Hùng, với những người chưa hoặc ít khi đi xa, bạn nên ăn sáng ở nơi thuận tiện, buổi trưa, sau khi đã chơi hội mọi người có thể về Việt Trì ăn.
Nơi nào nên đến: Đến Đền Hùng, sau khi làm lễ, những nơi bạn nên đến tiếp theo là: Bảo tàng Hùng Vương – nơi lưu giữ các hiện vật cổ Nhà nước Văn Lang, thời đại Hùng Vương dựng nước và giữ nước; Triển lãm ảnh nghệ thuật với chủ đề “Văn hóa đất Tổ – cội nguồn dân tộc Việt Nam” gắn với triển lãm mỹ thuật của các họa sỹ Hàn Quốc và Phú Thọ; Triển lãm tác phẩm đá chủ đề “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Việt Nam”; Triển lãm hình ảnh về di sản hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ… Dịp lễ hội thường sẽ rất đông người, tình trạng lộn xộn chen lấn là không thể tránh được, các bạn cần có phương án để tự bảo quản tài sản cá nhân. Điện thoại, ví tiền luôn để trong túi quần trước (để túi quần sau rất dễ bị rạch hoặc móc mất). Các loại túi, ba lô nên đeo quay về phía trước để luôn có thể nhìn được tài sản của mình.
Với những kinh nghiệm, lưu ý khi du lịch đền Hùng Phú Thọ này chắc chắ quý khách sẽ có chuyến du lịch tốt đẹp
Lịch trình du lịch Đền Hùng
Các tuyến khám phá Đền Hùng
Đền Hùng (Ảnh sưu tầm)
Lộ trình thứ nhất: Bắt đầu thắp hương đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân → đền thờ Tổ Mẫu Âu cơ → Đền thờ các Vua Hùng “đi từ cổng lên đền → đền Hạ → chùa Thiên Quang → đền Trung → đền Thượng → xuống giếng Cổ → xuống đền Giếng” → các điểm tham quan khác → kết thúc hành trình.
Lộ trình thứ hai: Bắt đầu thắp hương đền thờ đền thờ Tổ Mẫu Âu cơ → Đền thờ các Vua Hùng “đi từ cổng lên đền → đền Hạ → chùa Thiên Quang → đền Trung → đền Thượng → xuống giếng Cổ → xuống đền Giếng” → các điểm tham quan khác → đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân → kết thúc hành trình.
Lộ trình thứ ba: Đi từ cổng trung tâm lễ hội → Đền thờ các Vua Hùng “đi từ cổng lên đền → đền Hạ → chùa Thiên Quang → đền Trung → đền Thượng → xuống giếng Cổ → xuống đền Giếng” → đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ → các điểm tham quan khác → đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân → kết thúc hành trình.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Phú Thọ
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Xuân Sơn, Phú Thọ
Discussion about this post