Nghệ An, với vẻ đẹp tự nhiên và bản sắc văn hóa độc đáo, là điểm đến không thể bỏ qua cho du khách. Tỉnh này khoe mình với bờ biển dài, cảnh quan núi rừng hùng vĩ, và đa dạng hệ sinh thái, tạo điều kiện cho du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng phát triển mạnh mẽ. Nghệ An tự hào có hơn 1.000 di tích, nhiều lễ hội truyền thống phản ánh sâu sắc lịch sử và văn hóa của dân tộc.
Các bãi biển như Bãi Lữ, Cửa Lò, không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp tự nhiên mà còn là điểm đến lý tưởng cho du lịch mạo hiểm, thể thao biển. Nổi bật trong số các di tích là Khu di tích Kim Liên, mang giá trị lịch sử sâu sắc, là điểm hành hương của hàng triệu người mỗi năm, khẳng định vị thế của Nghệ An trong bản đồ du lịch văn hóa Việt Nam.
Giới thiệu chung về Nghệ An
TP Vinh nhìn từ trên cao (Ảnh: Baodautu.vn)
Nghệ An nằm ở phía Bắc miền Trung Việt Nam, giáp với tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, Lào ở phía Tây, và biển Đông ở phía Đông. Với diện tích là tỉnh lớn nhất Việt Nam, Nghệ An đa dạng về địa hình, từ bờ biển dài, đồng bằng màu mỡ đến núi rừng hùng vĩ và cao nguyên phía Tây.
Lịch sử của Nghệ An gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng của Việt Nam, từ thời tiền sử với những di chỉ khảo cổ, cho đến những trận đánh lớn trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong thời kỳ tiền sử, Nghệ An là nơi sinh sống của cộng đồng người cổ Việt, với những phát hiện khảo cổ quan trọng tại các di chỉ như Bàu Tró, chứng minh cho nền văn minh lúa nước sớm phát triển.
Thời kỳ Đại Việt, Nghệ An là tiền đồn phía Nam trong việc mở rộng bờ cõi và phòng thủ chống giặc ngoại xâm, với nhiều anh hùng dân tộc như Trần Nhân Tông khi ông tuần tra biên giới phía Nam của đất nước. Thế kỷ 19, dưới thời Nguyễn, Nghệ An cùng với các tỉnh miền Trung khác, trở thành tâm điểm của phong trào Cần Vương, nổi dậy chống Pháp.
Đặc biệt, Nghệ An là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, sinh ra tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn vào năm 1890. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là nguồn cảm hứng cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là sự kiện Bắc Sơn lên đèn – một biểu tượng của phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ 20.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nghệ An cũng là một trong những mặt trận quan trọng, nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, đồng thời là hậu phương vững chắc, cung cấp lực lượng và vật tư hỗ trợ cho tiền tuyến. Qua mỗi thời kỳ, Nghệ An không chỉ ghi dấu ấn qua các sự kiện lịch sử mà còn qua sự góp mặt và đóng góp của con người Nghệ An trong các phong trào cách mạng và xây dựng đất nước, làm phong phú thêm truyền thống đấu tranh bất khuất và yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Nên đi du lịch Nghệ An vào thời gian nào?
Suối cá vàng Khe Tọ, Nghĩa Đàn (Ảnh sưu tầm)
Thời gian lý tưởng để du lịch Nghệ An phụ thuộc vào sở thích và mục đích chuyến đi của bạn. Nghệ An có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Dưới đây là một số gợi ý về thời gian thích hợp để thăm Nghệ An:
- Mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4): Đây là thời gian lý tưởng để du lịch biển và tham quan các danh lam thắng cảnh. Thời tiết mát mẻ và ít mưa, rất thuận lợi cho việc di chuyển và khám phá. Bãi biển Cửa Lò, một trong những bãi biển đẹp nhất Nghệ An, là điểm đến hấp dẫn trong khoảng thời gian này.
- Mùa xuân (tháng 1 đến tháng 3): Mùa xuân là thời điểm tuyệt vời để thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên và tham gia các lễ hội truyền thống. Khí hậu trong lành, mát mẻ, rất phù hợp cho các hoạt động ngoài trời.
- Mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 7): Nếu bạn thích khám phá văn hóa và tham gia vào các hoạt động cộng đồng, mùa hè là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội đặc sắc. Tuy nhiên, đây cũng là mùa mưa, vì vậy bạn cần chuẩn bị cho những điều kiện thời tiết biến đổi.
- Cuối mùa xuân và đầu mùa hè (tháng 4 và tháng 5): Đây là thời điểm lý tưởng để chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng Nghệ An, khi thời tiết chuyển từ mát mẻ sang nóng bức, thiên nhiên bắt đầu bừng lên sức sống.
- Nếu muốn khám phá miền Tây Nghệ An, ngoại trừ những đợt mưa bão có thể gây sạt lở còn lại đi vào mùa đông hay mùa hè đều được bởi đây là vùng núi cao, thời tiết thường mát mẻ và dễ chịu hơn vùng đồng bằng.
- Nếu muốn săn mây trên đỉnh Pu Xai Lai Leng, nơi được mệnh danh là Tà Xùa của Nghệ An, các bạn có thể đi vào khoảng tháng 12 đến tháng 3 năm sau để có cơ hội cao hơn bắt được mây.
Hướng dẫn đi tới Nghệ An
Phương tiện cá nhân
Ô tô
Bạn có thể đi theo Quốc lộ 1A hướng về phía Nam khoảng 300km. Đường này đi qua nhiều tỉnh thành và dễ dàng tìm thấy trên bản đồ hoặc GPS. Một lựa chọn khác là cao tốc Ninh Bình – Hà Tĩnh, sau đó rẽ về Nghệ An. Thời gian di chuyển khoảng từ 6 đến 8 tiếng tùy theo điều kiện giao thông và tốc độ di chuyển.
Xe máy
Đi xe máy cũng là một lựa chọn thú vị để khám phá vẻ đẹp dọc đường, tuy nhiên cần chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt sức khỏe và an toàn. Lộ trình tương tự như khi đi ô tô, nhưng bạn cần lưu ý thêm về thời tiết và an toàn cá nhân.
Ngoài ra nếu lười chạy xe đường dài nhưng vẫn muốn mang theo xe máy để khám phá Nghệ An, các bạn có thể gửi kèm xe máy theo tuyến tàu hỏa Hà Nội – Vinh, ngủ 1 đêm trên tàu và sáng hôm sau sẽ tới nơi.
Phương tiện công cộng
Ô tô khách
Tuyến đường cao tốc Hà Nội – Ninh Bình hiện là chặng đầu tiên trên quá trình di chuyển tới Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Hệ thống giao thông Nghệ An với Quốc lộ 1A chạy từ Bắc vào Nam, qua các huyện ven biển và thành phố Vinh, cùng với 132 km đường Hồ Chí Minh chạy ngang qua các huyện miền núi trung du. Đối với phương tiện công cộng, các tuyến xe khách chất lượng cao đi Nghệ An xuất phát từ cả 2 miền thường xuyên và liên tục nên cũng không quá khó nếu các bạn muốn đến Nghệ An bằng xe giường nằm.
Lưu ý: Nên đặt vé trước qua điện thoại hoặc website của các hãng xe để đảm bảo có chỗ, đặc biệt vào các dịp lễ, tết, hoặc cuối tuần.
Tàu hỏa
Tàu hỏa dừng tại ga Vinh, Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Ga Vinh là một trong những ga hành khách chính trên trục đường sắt Bắc Nam nên đi tàu hỏa tới Nghệ An cũng là một lựa chọn không tồi. Thời gian tàu đi đến Vinh từ Hà Nội và Sài Gòn cũng tương đương thời gian ô tô chạy, tuy giá vé có cao hơn nhưng đi tàu sẽ thoải mái hơn đối với những gia đình có trẻ nhỏ.
Các chuyến tàu đi Vinh xuất phát từ ga Hà Nội, thời gian đi khoảng 6 tiếng. Để đến Vinh các bạn có thể đi các chuyến tàu Thống Nhất, tàu đi Đà Nẵng, tàu đi Quảng Bình. Phù hợp nhất là đi các chuyến tàu SE5, SE7 và SE11 bởi các chuyến tàu này xuất phát từ Hà Nội vào buổi sáng, đến khoảng đầu giờ chiều sẽ có mặt ở Vinh.
Nếu đi từ Hồ Chí Minh đến Vinh bằng tàu hỏa, thời gian trung bình mất khoảng từ 25-30 tiếng tùy theo đoàn tàu. Tất cả các chuyến tàu Thống Nhất xuất phát từ Hồ Chí Minh đều dừng ở ga Vinh. Nếu lựa chọn tàu hỏa để du lịch Nghệ An, các bạn nên chọn các chuyến tàu SE6, SE8 và SE12 bởi các chuyến tàu này đều đến Nghệ An vào ban ngày, phù hợp hơn cho việc đi du lịch.
Máy bay
Sân bay quốc tế Vinh (Ảnh sưu tầm)
Sân bay Vinh (cách ga Vinh 5 km), đã được nâng cấp thành sân bay Quốc tế và mở rộng để máy bay hiện đại loại lớn có thể lên xuống dễ dàng và đang được mở thêm tuyến bay đi các nước trong khu vực. Từ Hà Nội có các chuyến bay hàng ngày đến Sân bay Vinh với thời gian bay khoảng 1 giờ. Từ Hồ Chí Minh (và cả một số địa phương phía trong như Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Pleiku) đang có các đường bay thẳng tới Vinh. Tùy từng chặng sẽ do từng hãng hàng không khai thác.
Đi lại ở Nghệ An
Xe bus
Hệ thống xe bus tại Nghệ An khá phát triển, kết nối trung tâm thành phố Vinh với các huyện, thị xã và một số điểm du lịch nổi tiếng. Trên địa bàn Nghệ An có 18 tuyến xe buýt hoạt động ổn định với gần 300 phương tiện. Mỗi ngày, có trên 1.254 lượt phương tiện . Tần suất từ 15 đến 35 phút có 1 chuyến xe (tùy từng tuyến). Bạn có thể tìm hiểu thông tin về các tuyến đường, lịch trình cụ thể qua trang web chính thức của nhà xe, tại các bến xe, hoặc qua các ứng dụng di động (nếu có).
Xe máy
Với địa hình rộng lớn, các địa điểm du lịch trong tỉnh Nghệ An nằm khá cách xa nhau. Nếu có thể, các bạn hãy sử dụng phương tiện xe máy, sẽ thuận tiện hơn nếu muốn khám phá một số nơi mà các phương tiện công cộng không có để di chuyển tới.
Lưu trú tại Nghệ An
Khách sạn nhà nghỉ
Nhiều khách sạn lớn hiện cũng đã có mặt ở Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Hệ thống khách sạn và nhà nghỉ tại Nghệ An rất đa dạng, phục vụ đủ mọi nhu cầu từ bình dân đến cao cấp, đáp ứng được yêu cầu của đa số du khách khi đến tham quan và công tác tại đây. Đến nay Nghệ An đã có 827 khách sạn, nhà nghỉ với gần 20.000 phòng, trong đó có 03 khách sạn 5 sao, 10 khách sạn 4 sao và tương đương, 14 khách sạn 3 sao và tương đương và trên 40 khách sạn 1-2 sao.
Homestay
Du lịch theo phương thức homestay ở các huyện phía Tây của tỉnh đang dần được nhiều du khách biết đến (Ảnh sưu tầm)
Các homestay ở Nghệ An thường tập trung tại các khu vực du lịch nổi tiếng như thành phố Vinh, bãi biển Cửa Lò, Quỳnh Lưu, và vùng núi như Kỳ Sơn, huyện Tương Dương, và vườn quốc gia Pù Mát. Du lịch theo phương thức homestay ở Nghệ An, nhất là các huyện nằm ở phía Tây của tỉnh đang dần được nhiều du khách biết đến.
Các địa điểm du lịch ở Nghệ An
Du lịch Cửa Lò
Cửa Lò là một trong những điểm du lịch biển nổi tiếng nhất của tỉnh Nghệ An, Việt Nam, thu hút du khách bởi bãi biển dài với làn nước trong xanh, cát trắng mịn màng và không khí trong lành. Địa điểm này không chỉ là thiên đường nghỉ dưỡng lý tưởng mà còn phong phú về hoạt động giải trí như tắm biển, chèo thuyền kayak, dù lượn và câu cá.
Bên cạnh đó, Cửa Lò còn sở hữu nền ẩm thực đặc sắc với hải sản tươi ngon, phản ánh rõ nét văn hóa ẩm thực của người dân miền biển. Khách du lịch còn có cơ hội khám phá những địa điểm lịch sử và văn hóa quanh khu vực, như chùa Cửa Hội và đảo Lan Châu, làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch tại đây.
Bãi biển Cửa Lò
Bãi tắm Cửa Lò vào dịp cao điểm (Ảnh sưu tầm)
Bãi tắm Cửa Lò dài trên 10km, có độ dốc thoai thoải, cát trắng phẳng mịn, nước trong và sạch, không pha lẫn bùn như một số bãi biển khác. Bãi biển Cửa Lò, một trong những bãi biển đẹp nhất miền Trung Việt Nam, là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm một kỳ nghỉ bên bờ biển với làn nước trong xanh và bờ cát trắng mịn.
Bãi biển này cung cấp đa dạng các hoạt động từ tắm biển, thể thao dưới nước đến thưởng thức hải sản tươi sống ngay tại các quán ăn ven biển.
Đảo Hòn Ngư
Bãi biển của đảo Hòn Ngư (Ảnh sưu tầm)
Đảo Hòn Ngư hay còn gọi Song Ngư là một viên ngọc quý nằm cách bờ biển Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, khoảng chừng 4km. Được biết đến với vẻ đẹp hoang sơ và bí ẩn, đảo Hòn Ngư thu hút du khách bởi những bãi cát trắng mịn, làn nước biển trong xanh và những rặng san hô đầy màu sắc dưới đáy biển. Đảo là nơi sinh sống của nhiều loài chim biển và hệ động thực vật phong phú, tạo nên một hệ sinh thái tự nhiên đa dạng và độc đáo.
Đảo Song Ngư gồm hai hòn lớn nhỏ. Hòn lớn cao 133m, hòn nhỏ cao 88m so với mặt nước biển. Ðảo Song Ngư, trong con mắt của người xưa, còn tôn thế phong thủy một vùng địa linh nhân kiệt: “Hồng Lĩnh núi cao. Song Ngư biển rộng. Gặp thời vận sáng. Ðua nở nhân tài”.
Chùa Ngư
Chùa Ngư, một ngôi chùa cổ kính và linh thiêng, nằm ẩn mình trên đảo Ngư ở tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Đây là điểm đến tâm linh quan trọng, thu hút đông đảo phật tử và du khách thập phương đến chiêm bái và tìm kiếm sự bình an. Ngôi chùa mang đậm nét kiến trúc truyền thống, với không gian yên tĩnh, hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ của đảo.
Xuống tàu, đi qua cầu cảng là được chiêm ngưỡng chùa Ngư (Song Ngư tự), có từ thời Trần nhưng mới được phục dựng vào năm 2005. Trước chùa có 2 hai cây lộc vừng tương truyền đã 600 trăm năm tuổi, cành lá um tùm sum suê mọc trên hai gốc khổng lồ. Chính giữa chùa là giếng Ngọc, có nguồn nước ngọt mát, dùng để nấu lên loại rượu Song Ngư ngon nức tiếng.
Đảo Lan Châu
Đảo Lan Châu, Cửa Lò (Ảnh sưu tầm)
Đảo Lan Châu còn được người dân địa phương gọi với cái tên là đảo Rú Cóc vì có hình dáng tựa như một con cóc khổng lồ đang vươn mình ra biển khơi bao la. Đây là một hòn đảo nhỏ thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam, nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ và yên bình. Đảo Lan Châu cách bờ biển Cửa Lò chỉ vài kilomet, là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tránh xa sự ồn ào, nhộn nhịp của đô thị và tìm kiếm một không gian thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên.
Phía đông của đảo Lan Châu đặc trưng với hình ảnh những vách đá nhấp nhô trải dài ra phía biển, tạo những hình thù độc đáo mà với từng trí tưởng tượng thì lại hiện lên một cách khác nhau. Khu vực phía Tây nối với đất liền thành bán đảo, phía Bắc có bãi biển xanh như ngọc tuyệt đẹp.
Làng chài Xuân Thủy
Đến các khu vực chợ cá, làng chài, các bạn có thể mua được hải sản tươi sống với giá cả hợp lý (Ảnh sưu tầm)
Làng chài Xuân Thủy nằm cách đường quốc lộ của thị xã Cửa Lò khoảng hơn 2km. Nơi đây không ồn ào, náo nhiệt mà trái lại có phần yên ả, dân dã. Khung cảnh tại làng chài Xuân Thủy yên bình với những con thuyền đánh cá neo đậu trên bến, những hàng lưới phơi dưới nắng, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống ven biển.
Du khách có thể dạo bộ dọc theo bãi biển, trò chuyện cùng ngư dân để hiểu thêm về nghề cá truyền thống, hoặc tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá cùng họ để trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của một ngư dân thực thụ. Với những ai mê đồ hải sản, làng chài càng là một địa chỉ nên đến vì tại đây bạn có thể mua rất nhiều thứ từ cá thu, moi, cá mực… rất tươi và ngon.
Khu sinh thái Cửa Hội
Bãi biển Cửa Hội (Ảnh sưu tầm)
Khu du lịch sinh thái Cửa Hội nằm ở điểm giao nhau của trụ đường Vinh – Cửa Hội, đường Bình Minh thị xã Cửa Lò với đường ven Sông Lam. Với vị trí đặc địa nằm ngay cửa sông gần bãi biển, khu sinh thái này cung cấp cho du khách cơ hội tận hưởng không khí trong lành, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và khám phá đa dạng sinh học biển. Khu du lịch sinh thái Cửa Hội có khuôn viên rộng hơn 4ha với đường bờ biển dài 500m. Đây là điểm đến lý tưởng thu hút nhiều du khách du lịch khi ghé thăm Cửa Lò.
Du lịch Vinh
Du thuyền trên Sông Lam
Sông Lam xưa có tên là Sông Cả (sông mẹ). Tiếng Cả vừa hàm nghĩa là “lớn”, vừa có hàm nghĩa là “mẹ”, mẹ của những con sông nhỏ đổ về như: Nậm Nơm, Nậm Mộ, sông Giăng, sông La…Có lẽ do màu nước trong xanh lại chảy qua nhiều núi non, làng mạc tạo nên cảnh đẹp khác thường nên các nhà nho, các tao nhân mặc khách đã đặt cho sông những cái tên hoa mỹ: “Lam Giang”, “Thanh Long Giang”, “Lam Thuỷ”…đồng thời sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp có một không hai của nó. Sông Lam, dòng sông dài và hùng vĩ chảy qua nhiều địa phận của tỉnh, là mạch máu giao thông quan trọng và là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây.
Du thuyền Giang Đình Cố Độ trên sông Lam (Ảnh sưu tầm)
Trên chuyến du thuyền, du khách không chỉ được thưởng ngoạn vẻ đẹp yên bình của thiên nhiên mà còn có cơ hội tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của người dân sống quanh khu vực sông Lam. Du khách sẽ được nghe các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh tha thiết trên sông và được ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng nằm ven sông Lam của thành phố Vinh và tỉnh Nghệ An như Đền Ông Hoàng Mười, khu di tích cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong của vùng quê Hưng Nguyên, đến với Đình Trung Cần và Hoành Sơn, khu di tích Kim Liên, lăng và mộ Mai Hắc Đế, khu di tích danh nhân Phan Bội Châu…
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là chi nhánh của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (Ảnh sưu tầm)
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, tọa lạc tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, là một trong những điểm tham quan văn hóa và lịch sử quan trọng của vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Bảo tàng được thành lập nhằm ghi nhớ và tôn vinh truyền thống đấu tranh hào hùng của Xô Viết Nghệ Tĩnh – một trong những tổ chức cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam thời kỳ chống Pháp.
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đóng tại số 10 đường Đào Tấn, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, được thành lập vào ngày 15 tháng 1 năm 1960; là chi nhánh của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Thành cổ Vinh
Thành cổ Vinh hiện chỉ còn một đoạn nhỏ nhưng vẫn được bảo tồn để phục vụ du khách tới Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Thành cổ Vinh, một di tích lịch sử quan trọng tại tỉnh Nghệ An, là minh chứng sống động cho quá trình phòng thủ và xây dựng của người dân địa phương trong lịch sử. Được xây dựng vào thế kỷ 19 dưới thời vua Gia Long nhằm mục đích phòng thủ trước các cuộc xâm lược, thành cổ Vinh ngày nay còn lại là những phần tường thành đá cổ kính, đứng vững qua thời gian, kể lại câu chuyện về một thời kỳ oanh liệt của dân tộc. Thành cổ Nghệ An thuộc địa phận ba phường là Cửa Nam, Đội Cung và Quang Trung của thành phố Vinh.
Khu du lịch Núi Quyết
Nằm tại chân của dãy núi Quyết, phía tây cầu Bến Thủy trên hành trình từ Nam lên Bắc, du khách sẽ bắt gặp khu du lịch núi Quyết với cảnh quan hùng vĩ, nơi rừng thông reo vang bao phủ. Thuộc địa phận thành phố Vinh, khu du lịch này mở rộng trên diện tích khoảng 160ha, trong đó, diện tích khu núi chiếm 56ha, đa dạng với nhiều tiểu khu, đã phát triển thành một trong những điểm đến du lịch mới mẻ và hấp dẫn của tỉnh Nghệ An.
Đền thờ Quang Trung
Đền thờ vua Quang Trung trên đỉnh núi Quyết (Ảnh sưu tầm)
Ở độ cao 97 m so với mực nước biển, bao quanh bởi rừng thông thơ mộng, Đền thờ Hoàng đế Quang Trung hiện diện tại núi Dũng Quyết, thuộc phường Trung Đô, Thành phố Vinh. Đây là nơi ghi dấu chiến thắng mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1789 và những nỗ lực xây dựng đất nước của Hoàng đế Quang Trung. Trong quá trình tìm kiếm vùng đất lý tưởng để xây dựng thủ đô mới cho vương triều, Nghệ An được chọn bởi vẻ đẹp và vị thế đặc biệt của nó.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Viện trưởng Sùng chính thư viện, được chỉ đạo xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô tại Yên Trường, huyện Châu Lộc, với cấu trúc gồm thành nội, thành ngoại và điện Thái Hòa, nơi Hoàng đế đã thiết triều. Dù dự án dời đô chưa hoàn thành do sự ra đi đột ngột của Hoàng đế, khu vực này vẫn lưu giữ bia dẫn tích Phượng Hoàng Trung Đô, đánh dấu vị trí của kinh thành xưa.
Phượng Hoàng Trung Đô
Kinh thành Phượng Hoàng Trung Đô, tác phẩm kiến trúc do vua Quang Trung – Nguyễn Huệ (1752-1792) – khởi xướng, nằm êm đềm bên dòng sông Lam và dãy núi Dũng Quyết, hiện thuộc phạm vi thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Được khởi công vào năm 1788, nơi đây từng chứng kiến vua Quang Trung huy động một lực lượng quân sự hùng hậu lên tới 100.000 người, chuẩn bị cho chiến dịch tiến quân ra Bắc giải phóng Thăng Long khỏi quân Thanh xâm lược.
Kinh thành này không chỉ nhằm mục đích thay thế cho Phú Xuân mà còn được đặt tên theo hình tượng chim Phượng Hoàng, biểu tượng của sự vinh quang và trí tuệ, đồng thời nhấn mạnh vị trí trung tâm của nó giữa lãnh địa do Quang Trung quản lý, cách Phú Xuân khoảng 300 km.
Phượng Hoàng Trung Đô gồm hai lớp thành – thành Nội và thành Ngoại, với hình dáng thang độc đáo, tổng chu vi 2820 m, bao phủ diện tích khoảng 22 ha. Xung quanh là hào rộng 3 m, sâu 3 m, và bức tường cao từ 3 đến 4 m. Thành Nội, xây dựng từ gạch vồ và đá ong, có chu vi khoảng 1680 m, cao 2 m, với cổng chính hướng về phía tây và đông. Trong lòng thành Nội là toà lầu cao ba tầng, đứng trên bậc tam cấp làm từ đá ong, kết nối với điện Thái Hòa qua hai dãy hành lang, nơi tổ chức các buổi lễ thiết triều.
Từ trên cao nhìn xuống, Thành Nội Phượng Hoàng Trung Đô hiện lên như một hình tam giác, với một mặt tựa lưng vào núi Quyết, một mặt khác cắt qua núi Mèo và mặt còn lại mở rộng về phía cánh đồng, tạo thành một cảnh quan hài hòa và ấn tượng.
Đền Cờn
Đền Cờn (Ảnh sưu tầm)
Đền Cờn, đặt tại gò Diệc với hướng nhìn ra sông Hoàng Mai, thuộc phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, là một ngôi đền linh thiêng, tôn kính Tứ vị thánh nương gồm Dương Thái Hậu, Hoàng hậu và hai Công chúa của nhà Nam Tống, Trung Quốc. Theo truyền thuyết, sau khi nhận tin về việc vương triều bị đánh bại, bốn bà lần lượt nhảy xuống biển tự vẫn. Các bà thường hiển linh về giúp nhân dân trong vùng.
Vua Trần Anh Tông đã vinh danh họ bằng cách phong tặng danh hiệu Đại kiền quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương, biểu dương lòng dũng cảm và tinh thần vị tha. Phường Quỳnh Phương không chỉ nổi tiếng với Đền Cờn mà còn có đền Ông chín Cờn, một địa điểm tâm linh khác, tạo nên một không gian văn hóa và tín ngưỡng đặc sắc của vùng.
Du lịch Con Cuông
Huyện Con Cuông tại Nghệ An nổi bật là điểm sáng trong việc triển khai và phát triển mô hình du lịch cộng đồng, đặt nền móng cho sự kết hợp giữa du lịch với việc bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc và thúc đẩy kinh tế địa phương. Với bốn bản tiên phong trong mô hình du lịch cộng đồng bao gồm Bản Nưa và Bản Nà Pha thuộc xã Yên Khê, Bản Khe Rạn tại xã Bồng Khê, và Bản Xiềng ở xã Môn Sơn, Con Cuông đã thành công trong việc thu hút sự quan tâm của du khách từ khắp nơi đến tham gia, trải nghiệm và khám phá những nét đẹp văn hóa độc đáo và phong phú của vùng đất này.
Sự phát triển mạnh mẽ của du lịch cộng đồng ở Con Cuông trong thời gian gần đây đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và giá trị của bảo tồn văn hóa, đồng thời mở ra cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế tại địa phương.
Suối nước Mọc (Tạ Bó)
Suối nước Mọc hay còn gọi là suối Tạ Bó ở Con Cuông (Ảnh sưu tầm)
Suối Mọc, được biết đến với cái tên địa phương là Tạ Bó, nghĩa là suối nóng lạnh, một danh xưng mà người Thái ở khu vực xã Yên Khê, Con Cuông đã đặt cho. Đặc biệt thú vị với tính chất nước thay đổi theo mùa: mát mẻ trong mùa hè và ấm áp vào mùa đông, suối không bao giờ cạn và tạo ra một hồ bơi tự nhiên hấp dẫn.
Có một truyền thuyết đẹp về suối Mọc: Ngọc Hoàng từng sắp xếp cho các tiên nữ giáng xuống động Đào Nguyên ở xã Bồng Khê – Con Cuông, để đưa những người hiền nhân quân tử lên thiên đình. Để các tiên nữ không bị trần gian làm ô nhiễm, Ngọc Hoàng đã làm phép biến suối Mọc từ lòng đất, cho phép họ tắm rửa và làm đẹp trước khi gặp mặt những bậc hiền nhân quân tử. Suối Mọc không chỉ là một phần của thiên nhiên kỳ diệu mà còn chứa đựng những câu chuyện lịch sử và văn hóa phong phú, làm say mê lòng người.
Thác Khe Kèm
Thường người dân chỉ đến Thác Kèm vào buổi trưa bởi nước ở thác lúc nào cũng rất lạnh (Ảnh sưu tầm)
Thác Khe Kèm, tọa lạc tại xã Lục Dạ, Con Cuông, mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ. Đường đến thác không quá phức tạp; du khách chỉ cần thực hiện một bước đơn giản là dừng lại tại chốt kiểm lâm để kiểm tra giấy tờ và lắng nghe các thông báo cần thiết.
Sự kỳ vĩ của thác Khe Kèm trong lành và yên bình, đối lập với sự khiêm tốn của các dịch vụ du lịch tại đây, mang lại một không gian lý tưởng cho những ai đam mê khám phá và muốn tìm kiếm sự thư giãn giữa thiên nhiên.
Du lịch Diễn Châu
Đền Cuông
Đền Cuông ở Diễn Châu, Nghệ An cũng là nơi thờ An Dương Vương (Ảnh sưu tầm)
Các món hải sản ngon ở Cửa Lò
Ghẹ rang me
Ghẹ rang me (Ảnh sưu tầm)
Món ghẹ rang me là niềm tự hào của ẩm thực Cửa Lò, thu hút du khách bởi hương vị thơm ngon, độc đáo không lẫn vào đâu được. Đây là một trong những món không thể bỏ qua khi ghé thăm vùng biển này, với sự kết hợp hoàn hảo giữa vị ngọt của ghẹ và vị chua nhẹ nhàng, kích thích của nước cốt me. Trước khi đưa vào chiên trong dầu nóng, ghẹ tươi được tẩm ướp kỹ lưỡng với các loại gia vị, sau đó chiên đến khi chúng chuyển sang màu đỏ cam, làm lộ ra vẻ đẹp mê hoặc cùng với thịt ghẹ trở nên săn chắc và ngọt lịm.
Tiếp theo, ghẹ chiên được rang chung với nước cốt me, cùng một chút đường, tỏi, ớt và nước mắm để tăng thêm hương vị đậm đà cho món ăn. Sự kết hợp này tạo nên một màu sắc nâu óng ánh trên từng con ghẹ, khiến chúng không chỉ đẹp mắt mà còn vô cùng lôi cuốn. Món ghẹ rang me hoàn thành không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài bắt mắt mà còn là sự hòa quyện tuyệt vời giữa vị ngọt của thịt ghẹ và vị chua dịu của me, mang đến một trải nghiệm ẩm thực khó quên cho bất kỳ ai.
Tôm tít
Tôm tít rang me ở biển Cửa Lò (Ảnh sưu tầm)
Một thời gian dài được coi là món ăn dân dã ở các làng quê ven biển Cửa Lò, tôm tít (còn được biết ở một số nơi khác là bề bề) nay đã trở thành đặc sản được nhiều nhà hàng và quán ăn ưa chuộng. Thịt của tôm tít vừa ngọt vừa dai, mang đặc trưng hương vị biển đậm đà, đặc biệt là phần đầu tôm chứa nhiều gạch, mang lại hương vị bùi và ngậy. Tôm tít có thể được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, từ hấp, luộc đến nướng, mỗi cách chế biến lại khai thác và tôn vinh hương vị đặc trưng của loại tôm này.
Mực nháy
Mực được đánh bắt ở biển Cửa Lò luôn tươi ngon (Ảnh sưu tầm)
“Mực nháy” Cửa Lò ở Nghệ An là một trong những đặc sản hải sản hàng đầu Việt Nam, được công nhận nằm trong Top 10. Tên gọi này phản ánh đặc điểm độc đáo của loài mực: khi mới được bắt lên từ biển, chúng vẫn còn sống động với thân hình trong suốt và bề mặt da liên tục phản chiếu ánh sáng từ những đốm sáng lấp lánh, gợi lên hình ảnh như đang nháy mắt. Mặc dù nhiều người có thói quen gọi là “mực nhảy” do sự nhầm lẫn về tên gọi, nhưng “mực nháy” mới chính xác diễn tả vẻ đẹp và sự tươi ngon của loài mực này.
Trải nghiệm câu “mực nhảy” và thưởng thức ngay tại chỗ đã trở thành một hoạt động giải trí độc đáo, kết hợp cùng việc thưởng thức đặc sản, thu hút nhiều du khách. Với sự phát triển của ngành du lịch và dịch vụ nghỉ dưỡng, hoạt động câu mực bằng thuyền thúng ở Cửa Lò không chỉ là một trải nghiệm thú vị mà còn là một nét tiêu khiển hấp dẫn, góp phần tạo nên bản sắc và điểm nhấn đặc biệt cho du lịch ở Cửa Lò, mang lại cho du khách những kỷ niệm đáng nhớ.
Cháo nghêu
Ngoài Cửa Lò thì một số vùng biển khác, bạn cũng dễ dàng tìm thấy món cháo nghêu (Ảnh sưu tầm)
Khi dạo bước qua Cửa Lò vào buổi tối, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức một món ăn đặc sắc: cháo nghêu. Trước tiên, nghêu được luộc, sau đó sử dụng nước luộc để nấu cháo, còn ruột nghêu thì được chiên lên với các loại gia vị. Khi cháo đã chín, nghêu và cháo được trộn lẫn vào nhau và sau đó được đổ vào bát, nơi mà rau thơm đã được chuẩn bị sẵn. Hương thơm của gạo hòa quyện với vị của nghêu và rau thơm, tạo nên một món ăn đầy thanh lịch. Cháo nghêu không chỉ mang lại hương vị tuyệt vời mà còn cung cấp nhiều protein, giúp bồi bổ cơ thể và tăng cường sinh lực sau một ngày dài khám phá và mệt nhọc.
Khoai xéo
Khoai xéo bọc trong lá chuối rồi cắt ra ăn dần (Ảnh sưu tầm)
Truyền thuyết về nguồn gốc của món khoai xéo ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, dù không rõ ràng về thời điểm xuất hiện, được các bậc cao niên kể lại rằng, món ăn này đã tồn tại từ những thời kỳ khăn hiếm, nơi mà khoai lang trở thành một trong những nguồn thực phẩm chính hàng ngày của người dân.
Vùng đất Hà Tĩnh, nơi được thiên nhiên ưu ái với khí hậu nắng gió, là điều kiện lí tưởng cho việc phát triển các loại cây trồng như khoai, đậu, lạc. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo quản lương thực sau thu hoạch, cư dân nông thôn đã sáng tạo ra phương pháp cắt nhỏ khoai lang và phơi khô chúng. Từ những nguyên liệu giản dị này, món khoai xéo dần dần được hình thành. Món ăn này không chỉ bao gồm khoai khô mà còn kết hợp với đậu đỏ, đậu đen, lạc, gạo nếp và đường, tạo nên một hương vị đặc trưng, phản ánh đời sống văn hóa và ẩm thực phong phú của người dân Hà Tĩnh.
Dê Cầu Đòn và me Nam Nghĩa
Dê Cầu Đòn là một thương hiệu đã được gây dựng trên 20 năm (Ảnh sưu tầm)
Tại Nam Đàn, một vùng đất phong phú với nhiều đặc sản nổi bật, đặc biệt phải nhắc đến là thịt bê Nam Nghĩa và thịt dê Cầu Đòn. Trong số các món ăn được chế biến từ hai loại thịt này, bê thui và dê thui chính là những món không thể bỏ qua, với hương vị đặc trưng đến từ cách thui trên than hoa, tạo nên một sự kết hợp hài hòa giữa vị ngọt thịt, vỏ ngoài giòn và mùi thơm nồng nàn của lá bưởi, lá chanh, lá sả cùng với chút vị chát nhẹ từ lá ổi.
Hương vị của bê thui và dê thui trở nên hoàn hảo hơn khi thưởng thức cùng với rau thơm đa dạng từ vùng đồi núi của xứ Nghệ, tạo nên một trải nghiệm ẩm thực khó quên. Điểm nhấn không thể thiếu là tương Nam Đàn, một loại tương đặc biệt mang đậm hồn quê Nghệ An, làm tăng thêm phần phong phú cho mỗi miếng thịt thui, khơi gợi vị giác và làm nổi bật lên văn hóa ẩm thực độc đáo của vùng đất này.
Canh gà Thanh Chương
Món canh gà Thanh Chương được chế biến với các gia vị dân dã nhất nên cho hương vị đậm đà (Ảnh sưu tầm)
Canh gà Thanh Chương, một món ăn đậm đà và tinh tế, được chế biến từ những gia vị dân dã nhất. Quá trình chế biến bắt đầu bằng cách tách biệt xương và thịt gà, với phần thịt được cắt thành từng miếng vừa ăn, lưu ý là thịt gà đồi Thanh Chương chỉ teo nhỏ một lượng rất ít khi nấu. Tiếp theo, thịt gà được ướp với lá chanh, muối, nghệ và ớt tươi đã giã nhỏ.
Đồng thời, xương gà được băm mịn và nén thành viên. Sau khi thịt gà đã thấm gia vị, tiến hành xào sơ qua khoảng 5 phút, rồi thêm nước sao cho vừa đủ ngập, đun sôi lên hai lần, cho đến khi bề mặt nồi canh gà bắt đầu nổi lớp mỡ vàng ngậy, lúc này mới bắt đầu điều chỉnh gia vị cho vừa ăn, rắc xương gà đã nén lên trên, tiếp tục đun mở vung cho đến khi mùi thơm của lá chanh và vị cay của ớt tươi tỏa ra.
Canh gà nên được giữ ấm, và mỗi khi múc ra một bát, nếu hết lại tiếp tục múc thêm. Viên xương gà băm nhuyễn không chỉ giúp món canh giữ được vẻ ngoài sạch sẽ, gọn gàng mà còn dễ dàng thưởng thức mà không cần loay hoay xé thịt từ xương, đồng thời khéo léo bảo toàn hương vị quý giá của thịt gà đồi Thanh Chương.
Cá còm kho nghệ
Cá còm kho nghệ (Ảnh sưu tầm)
Trong số các món ngon được tạo ra từ cá còm, một loại hải sản tươi ngon tại xứ Nghĩa, có thể kể đến cá còm nấu canh nhút, cá còm rán và cá còm kho tương. Tuy nhiên, cá còm kho nghệ được coi là món ăn nổi bật và ngon nhất. Người dân ở Thanh Chương cho biết, việc kho cá còm với nghệ không chỉ giữ lại được vị thơm ngon tự nhiên của cá mà còn có khả năng loại bỏ mùi tanh, mang lại màu sắc bắt mắt cho món ăn.
Điều quan trọng nhất là nghệ giúp cho món ăn này không chỉ đảm bảo về hương vị và giá trị dinh dưỡng mà còn hàm chứa dược tính, tạo ra sự cân bằng hoàn hảo giữa thưởng thức và lợi ích sức khỏe.
Cá tràu Liên Thành
Những ai đã có dịp ghé qua Liên Thành sẽ không thể quên được trải nghiệm thưởng thức những món ăn làm từ cá tràu, bao gồm cá tràu nướng, cá tràu kho tộ, cá tràu viên, và cá tràu nấu canh chua, đều đặc sắc và hấp dẫn đến lạ thường. Cá tràu không chỉ là một phần không thể thiếu trong bữa ăn của người dân Liên Thành mà còn là biểu tượng ẩm thực của cả huyện Yên Thành.
Theo lời kể của những người cao tuổi trong làng, trong quá khứ, cá tràu là món ăn quý, dùng để cúng tổ tiên, tiếp đãi khách quý và tặng bạn bè, người thân vào dịp lễ, tết. Ngày nay, cá tràu không chỉ xuất hiện trong các bữa ăn gia đình mà còn được nhiều quán hàng chế biến để phục vụ du khách từ khắp nơi.
Trước kia, người Liên Thành săn bắt cá tràu chủ yếu để bán, nhưng cũng đã có truyền thống chuẩn bị cá tràu cho ngày Tết từ tháng 9, tháng 10. Quy trình chế biến cá tràu cho Tết bao gồm rửa sạch, ướp muối khoảng 30 phút, đun cho đến khi thịt cá chín và nứt ra, sau đó để ráo và gác trên giàn bếp.
Một tuần sau, cá sẽ được đun lại lần nữa và chỉ đến gần Tết mới kho với mắm muối và đường mật để tạo ra món cá tràu kho khô, vừa dùng để cúng Tết vừa để đãi khách. Thời điểm cá tràu Liên Thành ngon nhất là từ tháng 4 đến tháng 9, khi lúa mao bắt đầu rụng, cung cấp nguồn thức ăn phong phú cho cá, khiến thịt cá trở nên thơm ngon và béo ngậy.
Đặc sản vùng Tây Nghệ An
Trứng kiến Tây Nghệ An
Trứng kiến là một món ăn ưa thích của đồng bào vùng cao (Ảnh sưu tầm)
Vào mỗi năm, khi tháng 3 và tháng 4 về, là lúc trứng kiến đạt đến độ to và nhiều nhất, đánh dấu mùa săn trứng kiến rộn ràng của đồng bào miền Tây xứ Nghệ, biến nó thành một đặc sản độc đáo của vùng.
Trứng kiến không chỉ được biết đến qua món xào với dưa chuột mà còn được sáng tạo thành nhiều món ăn đa dạng khác như cuốn lá chuối nướng, canh măng chua nấu trứng kiến, hay lam trong ống nứa,… Đặc sản trứng kiến này được yêu thích không chỉ bởi người dân ở miền núi mà còn cả bởi người dân ở miền xuôi.
Khi thưởng thức, trứng kiến mang lại cảm giác đặc biệt khi vỡ lép bép trong miệng, tỏa ra hương thơm nhẹ nhàng cùng với vị thanh ngọt, béo ngậy, tạo nên trải nghiệm ẩm thực khó quên.
Chà Uốm
Tại các khu rừng tự nhiên của huyện miền núi phía Tây Nghệ An, cây chà uốm được người Thái coi trọng không chỉ vì giá trị gỗ dùng để xây dựng nhà cửa và làm chất đốt mà còn vì quả của nó. Khi mùa thu đến, quả cây chà uốm chín rơi xuống đất, người Thái sẽ thu gom chúng về để chế biến thành các món ăn đặc sắc. Quả chà uốm, với hình dạng tròn và vỏ ngoài cứng, yêu cầu phải phá vỡ lớp vỏ để tiếp cận hạt nhân bên trong, là bước đầu tiên trong quá trình chế biến.
Sau khi thu hoạch và tách lấy hạt, người ta dùng chày giã nhuyễn hạt chà uốm và thêm một chút muối trắng để tạo ra một món ăn độc đáo. Món này thường được kết hợp với xôi, tạo nên Khàu Pằn – một món xôi trộn truyền thống, ngon miệng và béo bùi, rất được ưa chuộng bởi đồng bào người Thái ở các huyện như Con Cuông, Tương Dương và Kỳ Sơn. Đây không chỉ là biểu hiện của sự sáng tạo trong ẩm thực mà còn thể hiện văn hóa ẩm thực phong phú của người Thái ở Nghệ An.
Khuộc lám Tây Nghệ An
Món “khuộc lám”, một đặc sản phổ biến trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Thái tại miền Tây Nghệ An, được dành riêng để tiếp đãi những vị khách quý. Đây là một món ăn chế biến từ nòng nọc, những sinh vật bắt được từ khe suối, qua quá trình chuẩn bị công phu.
Sau khi lấy sạch ruột của nòng nọc với một thanh nứa được vót mỏng, người ta sẽ trộn chúng với lá sả, ớt, mạc khẻn (còn gọi là mắc khén hoặc tiêu rừng), mắm muối và gạo tấm đã được giã nhỏ. Tất cả nguyên liệu này sau đó được nhồi vào trong hai ống nứa, đậy kín rồi đặt lên bếp than hồng để nấu, một phương pháp truyền thống giữ cho hương vị của món ăn không bị mất đi. Món này khi thưởng thức cùng với xôi sẽ mang lại hương vị tuyệt vời nhất.
“khuộc lám” không chỉ mang vị ngọt tự nhiên từ nòng nọc mà còn kết hợp hài hòa với vị ấm nồng của sả, vị cay nồng của mạc khẻn, và hương thơm đặc trưng từ sự pha trộn các loại gia vị, tất cả được tô điểm bởi mùi nứa tươi khi nấu trên than hồng, tạo nên một món ăn độc đáo và đầy ấn tượng.
Cá mát sông Giăng
Cá mát sông Giăng (Ảnh sưu tầm)
Cá mát, một loài cá nhỏ thường chỉ to bằng hai đến ba ngón tay của người lớn, với kích thước lớn nhất không quá 0,5 đến 0,8 kg, bước vào mùa vào tháng 8 âm lịch hàng năm. Thịt cá mát được đánh giá cao về độ lành tính, giá trị dinh dưỡng và hương vị thơm ngon, đặc biệt có chút vị đắng độc đáo do trong quá trình chế biến, người ta không bỏ ruột cá – một bộ phận sạch sẽ vì cá mát chủ yếu ăn thức ăn thực vật. Cá này ít mỡ, ít xương và phần đầu cá, khác biệt so với nhiều loại cá khác, lại mềm và giòn, được coi là phần ngon nhất.
Cá mát linh hoạt trong cách chế biến, có thể kho, rán hoặc nướng… không kể phương pháp nào, thịt cá luôn giữ được độ bùi và mùi thơm hấp dẫn. Điều này không chỉ làm nổi bật giá trị ẩm thực của cá mát mà còn phản ánh sự đa dạng trong cách thưởng thức hải sản của người dân.
Chịn Xồm
Món chịn xồm của người Thái ở Tây Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Chịn xồm, hay còn được biết đến với cái tên thịt chua, là một món ăn truyền thống mang đậm bản sắc của người Thái tại Nghệ An. Món này tượng trưng cho sự hòa quyện tinh tế giữa thịt tươi, lá cây từ rừng và các loại gia vị, đem lại cho nó một hương vị độc đáo, phân biệt rõ ràng với ẩm thực của các vùng miền khác. Việc tạo ra món chịn xồm đúng điệu yêu cầu nhiều bước phức tạp và sự chăm chút tỉ mỉ ngay từ những chi tiết nhỏ nhất.
Quá trình bắt đầu với việc người dân địa phương tìm kiếm những thân nứa trong rừng để chế tạo thành ống đựng thịt. Ống nứa cần được chọn lựa kỹ lưỡng: không quá già để tránh việc nứt vỡ làm rò rỉ nước và không quá non để tránh việc teo lại và tạo ra khe hở, cả hai trường hợp đều dẫn đến việc thịt bị hư hỏng.
Thời gian ủ thịt trong ống nứa phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, thường kéo dài khoảng ba ngày. Sau đó, thịt được lấy ra, trộn đều với thính gạo đã chuẩn bị từ trước, sau đó buộc kín và đặt trở lại gác bếp. Ba ngày tiếp theo, món thịt chua sẽ sẵn sàng để thưởng thức. Quy trình này không chỉ là một phương thức bảo quản thịt mà còn là cách để tăng thêm hương vị đặc trưng, làm nên sự khác biệt của món ăn này trong văn hóa ẩm thực của người Thái ở Nghệ An.
Cơm lam
Cơm lam nướng, món ăn ngon của người Thái ở Tây Nghệ An (Ảnh sưu tầm)
Giống như người dân Thái ở khu vực miền núi phía Bắc, cộng đồng Thái ở Tây Nghệ An cũng xem món lam, đặc biệt là cơm lam, là một phần quan trọng không thể tách rời khỏi cuộc sống hàng ngày của họ. Cơm lam, một đặc sản nổi tiếng, được chế biến từ nếp nương đã được làm sạch, sau đó được nhét vào trong ống nứa cùng với nước và nướng trên lửa than hồng.
Điều làm nên sự đặc biệt cho các món lam không chỉ nằm ở phương pháp chế biến mà còn ở việc hương vị tự nhiên của thức ăn được bảo toàn một cách nguyên vẹn, không bị mất đi qua quá trình nấu nướng.
Cá bống suối
Cá bống suối chiên giòn (Ảnh sưu tầm)
Mùa mưa ở miền Tây xứ Nghệ đánh dấu sự trở lại của đa dạng hải sản như cá, cua, nhái, ốc, với cá bống là loại được tìm kiếm nhiều nhất. Người dân nơi đây đặc biệt yêu thích loại cá nhỏ này và đã sáng tạo ra nhiều món ăn từ cá bống, mang đậm hương vị địa phương.
Sau khi thu hoạch, những con cá bống khỏe mạnh và đầy đặn nhất được tuyển chọn, sau đó được làm sạch mà vẫn giữ nguyên phần ruột và được ướp với gia vị. Bước tiếp theo, chúng được nướng trên lửa than hồng cùng với các loại cá suối nhỏ khác, tạo nên một món nướng thơm lừng và hấp dẫn. Không chỉ dừng lại ở việc nướng, cá bống suối còn được biến tấu thành nhân cho món mọc, một món ăn truyền thống thường gặp trong các bữa cỗ lễ tết của cộng đồng người Thái ở đây, thể hiện sự đa dạng và phong phú trong ẩm thực địa phương.
Lạp xường
Lạp xường (xưởng) là món ăn thường thấy trong gia đình người dân vùng cao (Ảnh sưu tầm)
Lạp xường, một món ăn truyền thống đặc trưng trong những dịp Tết của cộng đồng người Thái ở vùng cao Nghệ An, được làm từ thịt lợn chất lượng cao nuôi ngay tại bản làng. Không chỉ giới hạn trong văn hóa ẩm thực của người Thái, lạp xường giờ đây đã nhận được sự yêu mến rộng rãi từ người dân các vùng cao, trở thành một sản phẩm thực phẩm được ưa chuộng. Sự phổ biến của lạp xường phản ánh sự giao thoa văn hóa và sự mở rộng ảnh hưởng ẩm thực giữa các cộng đồng, từ đó nâng cao giá trị và vị thế của món ăn này trong bữa ăn người dân.
Bò giàng
Món bò giàng thường được làm trong các dịp Tết (Ảnh sưu tầm)
Từ truyền thống bảo quản và dự trữ thịt bò, trâu, lợn của người đồng bào vùng cao Nghệ An, bò giàng đã phát triển thành một phương pháp lưu trữ thực phẩm hàng trăm năm qua. Đặc biệt vào những dịp quan trọng như lễ, tết và cúng tế, thịt trâu, bò, lợn thường được chọn làm thực phẩm chính.
Để bảo quản thịt không cần tủ lạnh, người vùng cao cắt thịt thành từng miếng, ướp gia vị sau đó treo trên gác bếp “giàng” để khử trùng, làm khô, cho phép sử dụng được lâu dài mà vẫn đảm bảo an toàn và thơm ngon. Thịt bò giàng, với hương vị đặc trưng, đã thu hút được sự chú ý của người miền xuôi khi họ lên công tác, biến nó thành một món quà độc đáo. Dần dà, bò giàng trở thành một món ăn ưa thích của người dân miền xuôi, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán.
Món chẻo
Đối với người Thái ở miền Tây Nghệ An, đậu tương không chỉ là một nguyên liệu quen thuộc mà còn là cơ sở để tạo nên các món ăn đặc sắc, trong đó phải kể đến món chẻo chấm xôi là một biểu tượng ẩm thực độc đáo của họ.
Quy trình chế biến món chẻo bắt đầu bằng cách làm sạch đậu tương, sau đó đun nấu cho đến khi vỏ hạt đậu tự tách ra, đảm bảo hạt đậu đã chín mềm. Tiếp theo, đậu tương được rửa sạch và ngâm trong chum khoảng 3-4 ngày cho đến khi bắt đầu phát triển mùi lên men, sau đó đóng gói trong lá chuối và nướng trên than hồng.
Cuối cùng, hỗn hợp đậu tương nướng được giã mịn cùng với lá hẹ và có thể thêm vào cá nướng, rồi kết hợp với các gia vị như muối, ớt, bột ngọt để tạo nên hương vị đặc trưng. Món chẻo này có thể dùng để chấm xôi hoặc ăn kèm cơm, mang lại trải nghiệm ẩm thực đầy phong phú với vị bùi của đậu tương, hương thơm nồng của lá hẹ và vị cay nồng của ớt, tiêu, làm nên một món ăn hấp dẫn và đầy màu sắc.
Tó tàu
Món tó tàu, một món ẩm thực độc đáo được làm từ nhộng ong đất, rất được người dân huyện Con Cuông, Nghệ An yêu thích, là một biểu tượng ẩm thực của đồng bào Thái nơi đây. Khu vực này nổi tiếng với số lượng lớn ong đất sinh sống và làm tổ, cung cấp nguyên liệu phong phú cho việc chế biến món ăn truyền thống này.
Các món từ côn trùng
Với bàn tay khéo léo, sự chế biến tài tình tất cả đã trở thành những món đặc sản (Ảnh sưu tầm)
Người miền Tây xứ Nghệ đã biến hóa tài tình từ bọ xít, ve sầu, rắn mối, bọ cạp, đến những con nhộng tằm, dế mèn, châu chấu, cào cào thành những món ăn đặc sản đưa lên bàn ăn bằng bàn tay khéo léo và sự sáng tạo trong chế biến.
Các đặc sản Nghệ An mua về làm quà
Nhút Thanh Chương
Nhút mít, món quà quê giờ đã thành đặc sản xứ Nghệ (Ảnh sưu tầm)
Nhút, một thuật ngữ phổ biến trong ẩm thực miền Trung, được tạo nên từ mít xanh hoặc xơ mít phối hợp với muối trắng không iốt, là một biểu tượng của sự sáng tạo trong việc chế biến thức ăn. Có thể biến hóa linh hoạt, nhút được thưởng thức trong nhiều món như chấm với nước mắm, làm thành nộm hoặc xào.
Trải dài dọc miền Trung, nhút được sản xuất ở nhiều nơi nhưng phiên bản được ưa chuộng và danh tiếng nhất là nhút Thanh Chương, sản xuất tại Thanh Chương, Nghệ An – vùng đất nổi tiếng với giống mít ngon đặc trưng.
Nhút ở đây, mệnh danh là “Kim chi của xứ Nghệ”, được làm từ mít non và có thể được chế biến theo nhiều cách, từ việc xào cùng thịt lăn trong mùa đông đến nấu đơn thuần để thưởng thức hương vị độc đáo của nó. Với vị chua chua, giòn giòn, nhút Thanh Chương trở thành một lựa chọn tuyệt vời cho bữa cơm gia đình, chỉ cần thêm chút nước mắm là đã tạo nên một món ăn ngon miệng. Mặc dù xuất phát từ một món ăn dân dã, nhút ngày nay đã trở thành một đặc sản độc đáo của xứ Nghệ, được biết đến rộng rãi.
Tương Nam Đàn
Tương Nam Đàn (Ảnh sưu tầm)
Kể cả khi không phải người bản địa xứ Nghệ, chắc hẳn mọi người đã từng được nghe đến những cái tên như “Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”, tiếng tăm của những món đặc sản này vang dội khắp nơi. Việc sản xuất ra những chum tương thơm ngon không phải là công việc đơn giản; nó đòi hỏi sự cẩn trọng trong từng bước, từ việc chọn lựa nguyên liệu tốt nhất cho đến các khâu ủ, phơi nắng, và lên men tương. Làng nghề tương Nam Đàn, đặc biệt là làng Phan Bội Châu nằm ở thị trấn Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được biết đến rộng rãi với danh tiếng của mình.
Đến thăm nơi này, du khách sẽ được đón chào bởi mùi hương đặc trưng của tương thấm đượm mọi con phố, ngõ hẻm. Điểm nổi bật của tương Nam Đàn là nó được gọi là “tương mảnh”, với hạt đậu nghiền không hoàn toàn nát bét như tương Bần, mà chỉ thành “mảnh đậu”, mang lại hương vị đặc biệt, không quá đậm đà nhưng lại rất thơm và ngọt. Khác biệt với màu nâu của tương Bần, tương Nam Đàn có màu vàng óng ánh, như mật ong, với những mảnh đậu nổi bật trong nước tương sánh mịn. Tương này thường được dùng để chấm rau muống, rau lang gừng hoặc kho cá, làm nên hương vị đặc trưng cho các món cá sông, cá đồng khi được nấu trong nồi đất Kẻ Trù.
Mực một nắng
Mực đang trong quá trình phơi (Ảnh sưu tầm)
Việc tạo ra mực một nắng bắt đầu từ việc lựa chọn cẩn thận những con mực tươi, với quy tắc cơ bản là càng to càng chất lượng. Mực sau đó được làm sạch, cắt xẻ và để cho ráo nước. Quy trình tiếp theo đòi hỏi việc phơi mực dưới ánh nắng mặt trời hoặc sấy bằng than củi để đạt được độ khô mong muốn.
Chất lượng mực một nắng tốt nhất được đảm bảo khi phơi dưới nắng khoảng một buổi; phơi quá lâu sẽ làm mất đi độ ngọt và độ dai của mực. Trong điều kiện thời tiết không cho phép, việc sấy mực với than củi trở nên cần thiết, thường mất khoảng một ngày để hoàn thành.
Mực một nắng là nguyên liệu linh hoạt cho nhiều món ăn ngon, từ mực nướng, mực hấp với hành và gừng, đến mực chiên nước mắm, chiên giòn, xào hay sốt me, mang lại trải nghiệm ẩm thực phong phú cho thực khách. Khi ghé thăm Nghệ An, du khách có thể mua mực một nắng tại các bãi biển như Cửa Lò hay Quỳnh làm quà biếu, mang về chia sẻ với gia đình và bạn bè, là một lựa chọn quà tặng đặc sắc và ý nghĩa.
Mắm Ruốc Cửa Lò
Mắm ruốc (Ảnh sưu tầm)
Ruốc, một loại tép biển có thân nhỏ hơn so với tép đồng, là đặc sản nổi tiếng ở vùng biển miền Trung, nơi du khách dễ dàng bắt gặp và thưởng thức hương vị đặc trưng của nó. Hầu hết các gia đình tại đây đều chuẩn bị và dự trữ thùng mắm ruốc lớn trong nhà để sử dụng quanh năm, phản ánh tầm quan trọng và tình yêu với món ăn này.
Sản xuất mắm ruốc là một quá trình đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận không kém gì những món ăn phức tạp khác. Ruốc tươi phải được lựa chọn kỹ lưỡng, tránh sử dụng nước lã để rửa vì sẽ làm hỏng ruốc. Sau khi rửa sạch, ruốc được lăn đều với muối trên chảo để đảm bảo độ thơm ngon, với mùi thơm nhẹ, vị không quá mặn và màu đỏ au cuốn hút.
Trong bữa ăn hàng ngày của các gia đình ở Nghệ An, mắm ruốc được coi là gia vị không thể thiếu, có thể dùng để chấm, ăn kèm với bún, hoặc chế biến thành các món như nêm canh, cháo ruốc, rim mắm ruốc, hoặc kho thịt. Để thưởng thức hết hương vị của mắm ruốc, nhiều người ưa thích ăn nó thô cùng với khế chua và bún, tạo nên sự kết hợp hài hòa của vị ngon, chua, cay từ ớt tươi, kích thích và làm hài lòng mọi giác quan.
Cam xã Đoài
Giống cam nổi tiếng của Nghệ An, giờ phổ biến hầu khắp cả nước (Ảnh sưu tầm)
Cam Vinh, một biểu tượng của tỉnh Nghệ An, có nguồn gốc từ Xã Đoài, thuộc khu vực Nghi Diên – Nghi Lộc, cách trung tâm thành phố Vinh khoảng 13 km về phía bắc. Đặc biệt, đất đai và nguồn nước tại đây đã tạo nên một giống cam độc đáo, mà dù có áp dụng cùng một phương pháp chăm sóc ở nơi khác cũng khó có thể tái tạo được hương vị “giọt vàng như mật ong”, hương thơm nức nở đến nỗi “bổ cam ngoài cửa trước, hương thơm lan vào nhà trong”.
Khi cam bắt đầu chín, nó hiện lên với màu vàng tươi, dần dà chuyển sang màu sẫm hơn, nhưng vẫn giữ được sự tươi mới, bên ngoài bao phủ một lớp vỏ mỏng có the. Chỉ cần một cử chỉ nhẹ nhàng sây xát, mùi thơm đặc trưng của cam liền tỏa ra. Khi cắt mở, cam mang đến hương vị ngọt nhẹ, thơm mịn, để lại trên môi cảm giác ngọt ngào như mật ong sau khi thưởng thức. Các vườn cam thường bắt đầu đón khách đặt mua từ tháng 10, tháng 11 âm lịch, với cam chín rộ vào thời điểm gần Tết, thu hút người mua tới từ khắp nơi.
Giò Me Nam Nghĩa
Giò me, món đặc sản Nghệ An mà cứ sát Tết sẽ thấy được bán khắp nơi (Ảnh sưu tầm)
Giò me, một đặc sản độc đáo và khá mới mẻ từ xứ Nghệ, được tạo nên từ thịt bê (còn được gọi là thịt me), bì bê, trứng gà và một số gia vị khác. Thịt bê trong giò me có đặc tính mềm và thơm, không hề khô, trong khi lớp bì bê giòn sần sật tạo nên một sự kết hợp hoàn hảo với hương vị gia vị đậm đà và mùi thơm nổi bật của giò, cùng với hạt tiêu, mang lại một trải nghiệm ẩm thực khó quên.
Món giò me này đã chiếm được cảm tình của bất kỳ ai đã từng thử qua, với hương vị đặc trưng không lẫn vào đâu được. Thường được sử dụng trong các dịp lễ hội, tết, tiệc tùng hoặc làm quà biếu, giò me trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hóa ẩm thực của người dân Nghệ An.
Bánh gai Xứ Dừa
Mặc dù có ở nhiều tỉnh thành, bánh gai xứ dừa Nghệ An vẫn là một trong những đặc sản được nhiều người ưa thích (Ảnh sưu tầm)
Bánh gai xứ Dừa tại xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn, đã từ lâu trở thành một đặc sản danh tiếng. Khi đi dọc quốc lộ 7A và ghé thăm làng bánh gai, du khách sẽ bị hấp dẫn bởi mùi thơm nức của mật mía, lá gai, bột nếp, và đỗ xanh phảng phất từ những lò hấp bánh đang tỏa khói, tạo nên một hương vị đặc trưng khó tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Món bánh gai này cũng là quà tặng quê hương không thể thiếu dành cho bất kỳ ai đến thăm Anh Sơn.
Để tạo nên những chiếc bánh gai đúng điệu, người làm nghề ở xứ Dừa phải đầu tư công phu và tỉ mỉ vào mọi công đoạn, từ việc lựa chọn nguyên liệu chất lượng cao như nếp, đỗ xanh, lá gai tươi, dừa khô, đến đường cát trắng và dầu ăn… cho đến quá trình hấp bánh. Mỗi giai đoạn trong quy trình sản xuất bánh gai đều được các gia đình ở đây chăm chút kỹ lưỡng, không cho phép bỏ qua hoặc xem nhẹ bất kỳ khâu nào, ngay cả việc chọn lựa lá chuối để gói bánh.
Lịch trình du lịch Nghệ An
Nghệ An có đường bờ biển dài 82 km, nhiều bãi tắm đẹp, khu bảo tồn thiên nhiên nên (Ảnh sưu tầm)
Hà Nội – Cửa Lò 3 ngày
Ngày 1: Hà Nội – Vinh – Cửa Lò
Khởi hành từ ga Hà Nội vào lúc 8 giờ sáng bằng tàu SE11, chuyến đi dự kiến sẽ kết thúc tại ga Vinh vào lúc 14 giờ. Sau khi đến ga Vinh, việc tiếp theo là lấy taxi đến khách sạn để làm các thủ tục check-in. Chuyến tàu này rơi vào thời gian ăn trưa, vì thế hành khách có thể mua đồ ăn trên tàu hoặc chuẩn bị sẵn từ nhà. Đây là một lựa chọn lý tưởng cho các gia đình đi cùng trẻ em, mang lại trải nghiệm thú vị cho cả nhà.
Sau khi hoàn tất việc nhận phòng, bạn có thời gian nghỉ ngơi cho đến chiều. Khi tiết trời trở nên mát mẻ hơn, đó là lúc lý tưởng để bạn ra biển Cửa Lò tận hưởng không khí biển và làm một số hoạt động như tắm biển. Buổi tối, đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức hải sản tại Cửa Lò, một trong những trải nghiệm không thể thiếu khi đến với vùng biển này.
Ngày 2: Cửa Lò – Làng Sen
Bắt đầu ngày mới bằng việc thức dậy sớm để chiêm ngưỡng bình minh tuyệt đẹp tại biển Cửa Lò, sau đó tận hưởng bữa sáng và ly cafe, bạn có thể lên kế hoạch cho một chuyến thăm Làng Sen, quê hương của Bác Hồ.
Đến trưa, quay lại Cửa Lò để nghỉ ngơi và thưởng thức những món ăn ngon địa phương. Chiều là thời gian lý tưởng để khám phá đảo Lan Châu và đảo Hòn Ngư. Sau đó, trở lại bãi biển Cửa Lò để tham gia vào các hoạt động thể thao dưới nước và ghé công viên nước WaterFun Cửa Lò.
Buổi tối, sau khi đã nghỉ ngơi và ăn tối, bạn có cơ hội tham gia tour câu mực đêm, một trải nghiệm độc đáo cùng với ngư dân địa phương, để hiểu thêm về cuộc sống và công việc của họ.
Ngày 3: Cửa Lò – Hà Nội
Bắt đầu ngày mới bằng việc tận hưởng bãi biển sớm, sau đó thưởng thức bữa sáng và dành thời gian để mua sắm quà lưu niệm cho gia đình và bạn bè.
Vào buổi trưa, sau khi hoàn tất việc trả phòng khách sạn, hãy lên taxi để trở lại ga Vinh, chuẩn bị cho hành trình quay về Hà Nội. Có hai chuyến tàu thích hợp cho chuyến đi này: SE6 khởi hành lúc 12h51 và đến Hà Nội vào lúc 19h12, hoặc SE36 khởi hành từ ga Vinh lúc 13h30 và đến Hà Nội lúc 19h58.
Hà Nội – Bãi Lữ – Cửa Lò
Ngày 1: Hà Nội – Vinh – Bãi Lữ
Khởi hành từ ga Hà Nội vào lúc 8 giờ sáng bằng chuyến tàu SE11, bạn sẽ đến ga Vinh vào khoảng 14 giờ. Tại đây, việc tiếp theo là lấy taxi đi thẳng đến khách sạn để tiến hành check-in. Chuyến tàu này đúng vào giờ ăn trưa, nên bạn có thể mua đồ ăn trên tàu hoặc chuẩn bị sẵn từ nhà, đặc biệt là khi đi cùng trẻ em, chuyến đi sẽ trở nên thú vị hơn.
Sau khi nhận phòng và nghỉ ngơi một chút, khi thời tiết bắt đầu mát mẻ, hãy ra Bãi Lữ để tắm biển. Đến chiều tối, bạn có thể lựa chọn đi taxi đến biển Cửa Hiền, nơi cung cấp nhiều sự lựa chọn hơn về ẩm thực, để thưởng thức bữa tối.
Ngày 2: Bãi Lữ – Cửa Lò
Tiếp tục buổi sáng bằng việc thư giãn và khám phá Bãi Lữ, khu vực này có nhiều địa điểm thú vị cho bạn trải nghiệm.
Khi tiến gần đến giờ trưa, hãy hoàn tất thủ tục trả phòng tại khách sạn và thuê một taxi để di chuyển đến Cửa Lò, cách đó khoảng 20km. Sau khi nhận phòng tại Cửa Lò, bạn sẽ có thời gian thoải mái tận hưởng không gian biển, dạo chơi và thử nghiệm các món hải sản tươi ngon tại đây. Dành buổi tối để nghỉ ngơi và thư giãn tại Cửa Lò.
Ngày 3: Cửa Lò – Hà Nội
Bắt đầu ngày mới bằng cách thức dậy sớm để tắm biển, sau đó thưởng thức bữa sáng và dành thời gian mua sắm quà lưu niệm cho gia đình và bạn bè.
Khi buổi trưa đến, hoàn tất việc trả phòng tại khách sạn và gọi taxi để trở về ga Vinh, chuẩn bị cho hành trình về Hà Nội. Có hai lựa chọn chuyến tàu thuận tiện: SE6 khởi hành từ ga Vinh vào lúc 12h51 và đến Hà Nội lúc 19h12, hoặc chuyến SE36 rời ga Vinh lúc 13h30 và đến Hà Nội vào lúc 19h58.
Discussion about this post