Thật bất ngờ khi ngay gần Hà Nội lại có một địa điểm du lịch hấp dẫn cho những ai có sở thích khám phá, chinh phục miền đất mới. Du lịch Thái Nguyên là sự lựa chọn không tệ chút nào để mang đến những trải nghiệm thú vị về “xứ trà”. Mặc dù không mạo hiểm, không nhiều khó khăn như đi phượt Cao nguyên Đá Hà Giang, không ấm áp như Khánh Hòa, cũng không hùng vĩ như Hạ Long… Thái Nguyên lại mang đến nét riêng, chúng có gì đó nhẹ nhàng, mới mẻ không kém phần hấp dẫn. Hãy cùng RuudNguyen.com giúp bạn khám phá các điểm đến thú vị và món ăn độc lạ ở nơi này nhé.
Giới thiệu chung về Thái Nguyên
Thành phố Thái Nguyên (Ảnh sưu tầm)
Tỉnh Thái Nguyên mới được hình thành trên cơ sở hợp nhất với Bắc Kạn, giữ vai trò cửa ngõ của vùng Đông Bắc – trung du và miền núi phía Bắc, kết nối thuận lợi với Hà Nội và các trung tâm kinh tế lân cận. Sau sắp xếp đơn vị hành chính, tỉnh có 92 đơn vị cấp xã gồm 77 xã, 15 phường. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn và Bắc Ninh, phía Nam giáp Hà Nội và Phú Thọ. Từ rất lâu, người ta biết đến Thái Nguyên dưới góc nhìn mảnh đất gắn liền với “trà” để dân gian vẫn có câu ca thân thương “chè Thái gái Tuyên”.
Trong địa giới tỉnh Thái Nguyên mới sau sáp nhập, vùng đất Bắc Kạn cũ là “miền quan yếu” phía Bắc, giữ vị trí đặc biệt về chính trị – quân sự. Suốt chiều dài lịch sử, đồng bào các dân tộc nơi đây kề vai sát cánh cùng cả nước đánh bại nhiều đạo quân xâm lược từ phương Bắc (Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều địa bàn nay thuộc Thái Nguyên được Trung ương xây dựng thành Khu an toàn (ATK), trở thành căn cứ địa cách mạng: tiêu biểu có xã Chợ Đồn, ; xã Phủ Thông, xã Bạch Thông… Nơi đây đã cưu mang cơ quan Trung ương, bảo vệ lãnh tụ, kho tàng, xí nghiệp sơ tán. Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu–Đông 1947, những địa danh như đèo Giàng và Phủ Thông gắn với nhiều chiến công oanh liệt, khắc sâu vào lịch sử kháng chiến của dân tộc.
Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực tiếp che chở phía Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 1076-1077, phần đất phía Nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân nhà Lý với Nhà Tống. Đầu thế kỷ 15, nhà Minh đem quân sang Việt Nam, dân chúng Thái Nguyên lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ, ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại quan lại phong kiến. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc, Nông Văn Vân.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa. Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, chiến dịch Đông-Xuân 1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt sự kiện quan trọng khác.
Từ năm 1956 đến 1975, Thái Nguyên là một tỉnh thuộc Khu tự trị Việt Bắc và thành phố Thái Nguyên là thủ phủ của khu tự trị này. Trước đó, năm 1890, chính quyền Pháp chia tỉnh Thái Nguyên thời nhà Nguyễn thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáp nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Tỉnh Bắc Thái cuối cùng lại tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn như ngày nay vào năm 1997.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1683/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Thái Nguyên năm 2025 sáp nhập tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Thái Nguyên.
Du lịch Thái Nguyên vào thời gian nào?
Đặc trưng thời tiết ở Thái Nguyên được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10, thường nóng ẩm mưa nhiều tập trung chủ yếu trong tháng 8.
Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, điển hình thời tiết là khô lạnh, đặc biệt tháng 11. Nếu bạn may mắn đi vào những ngày trời nắng đẹp, thì sẽ thuận tiện hơn cho việc khám phá, tham quan.
Bạn có thể đi vào bất kì thời gian nào trong năm. Tuy nhiên, mình khuyên các bạn nên đi vào mùa hè vì có thể kết hợp tham quan nhiều địa điểm du lịch và các hoạt động trong Hồ Núi Cốc hay hồ Ba Bể. Bạn nên đi vào khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9, lúc này Hồ Núi Cốc và hồ Ba Bể thu hút đông đảo du khách, có nhiều hoạt động nghệ thuật được tổ chức. Còn nếu bạn thích không khí vui nhộn thì có thể tới vào mùa lễ hội ở Hồ Ba Bể vào rằm tháng giêng.
Hướng dẫn đi tới Thái Nguyên
Phương tiện công cộng
Trung tâm tỉnh Thái Nguyên cách Hà Nội 80km nên nếu bạn Từ Hà Nội, các bạn có thể đi tới Thái Nguyên theo hướng Quốc lộ 3 (đường Nam Thăng Long qua sân bay Nội Bài). Các tuyến xe khách đi Thái Nguyên xuất phát từ bến xe Mỹ Đình hoặc bến xe Nam Thăng Long. Từ bến xe Thái Nguyên tới trung tâm thành phố khoảng 4km, bạn đi có thể đi taxi hoặc xe ôm về trung tâm. Mạng lưới taxi ở Thái Nguyên khá nhiều, nếu bạn dư dả về tài chính thì có thể thuê taxi để đi lại nhé, vừa thuận tiện lại tiết kiệm thời gian.
Thêm một trải nghiệm nếu bạn chọn đường sắt là hằng ngày sẽ có các chuyến tàu từ Hà Nội – Thái Nguyên, các bạn có thể truy cập website đường sắt VN để cập nhật lịch trình mới nhất.
Phương tiện cá nhân
Nếu sử dụng xe máy, các bạn từ Hà Nội đi sang phía Đông Anh qua cầu Thăng Long hoặc Nhât Tân rồi đi lên Thái Nguyên theo hướng QL3, nếu đi ô tô các bạn có thể lựa chọn tuyến cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên. Quãng đường từ Hà Nội lên trung tâm tỉnh Thái Nguyên khoảng 80km, nếu đi cao tốc chỉ mất khoảng 1h là tới nơi.
Lưu trú khi du lịch Thái Nguyên
Khách sạn nhà nghỉ tại Thái Nguyên
Khách sạn và nhà nghỉ ở Thái Nguyên tập trung chủ yếu ở các tuyến đường khu vực trung tâm như: Hoàng Văn Thụ, Lương Ngọc Quyến, Cách mạng tháng 8 …v…v Do đó, tùy theo địa điểm mà mình muốn tới các bạn hãy lựa chọn cho mình điểm đến thích hợp nhất.
Homestay ở Thái Nguyên
Ngoài các dịch vụ lưu trú phổ biến như khách sạn, nhà nghỉ, ở Thái Nguyên cũng bắt đầu xuất hiện một số mô hình lưu trú homestay, đây là hình thức lưu trú mới có sức phát triển mạnh và được rất nhiều các bạn trẻ yêu du lịch quan tâm.
Các địa điểm du lịch ở Thái Nguyên
Hồ Núi Cốc
Hồ Núi Cốc (Ảnh: Viet Anh Nguyen)
Hồ cách trung tâm thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 15km về phía tây, là một thắng cảnh thiên nhiên gắn liền với câu chuyện tình huyền thoại về chàng Cốc nàng Công.
Khu du lịch Hồ Núi Cốc hay còn gọi là Du lịch huyền thoại Hồ Núi Cốc. Đây là một hồ nước gắn liền với huyền thoại nàng Công và chàng Cốc. Cùng với đó là rất nhiều các công trình nhân tạo khác như đền chùa, vườn động vật hoang dã, công viên nước, và số các trò chơi cảm giác mạnh…tất cả đã tạo nên một quần thể du lịch thú vị và hấp dẫn du khách.
Khu Du Lịch Hồ Núi Cốc là quần thể du lịch sinh thái thuộc tỉnh Thái Nguyên cách trung tâm thành phố 15 km. Đây là là một địa điểm du lịch giải tỏa stress ngày cuối tuần rất tuyệt vời. Không đơn thuần là nghỉ ngơi, tĩnh tâm mà còn là cơ hội để du khách đắm mình trong không gian huyền thoại về tình yêu tuyệt đẹp của Nàng Công và Chàng Cốc.
Xem thêm: Hướng dẫn đi Hồ Núi Cốc
Khu di tích ATK Định Hóa
An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”, có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của các cơ quan đầu não kháng chiến. Khu căn cứ này đặt tại huyện Định Hóa cũ.
Đồi Khau Tý
Đồi Khau Tý nơi đặt trụ sở đầu tiên của Bác Hồ tại ATK Định Hóa, thuộc xóm Nà Tra, xã Phú Đình. Bác đã ở và làm việc tại đây đến giữa tháng 10/1947.
Tại Khau Tý, Bác Hồ chủ trì cuộc họp Ban thường vụ Trung ương Đảng, có Tổng bí thư Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ và Võ Nguyên Giáp luận bàn và ra chỉ thị phá tan cuộc tấn công của giặc Pháp 1947 đánh lên căn cứ địa Việt Bắc. Tại đây, Bác đã sáng tác bài thơ “Cảnh Khuya”.
Đồi Phong Tướng
Đồi Nà Lọm bây giờ còn được gọi là đồi Phong Tướng, cách Tỉn Keo khoảng 500m về phía Đông, bên phải đường ô tô từ trung tâm xã Phú Đình vào đèo De. Cũng tại đây, ngày 28/5/1948 Bác đã chủ trì lễ phong quần hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam Võ Nguyên Giáp. Ngày 20-1-1948 tại Phủ Chủ tịch – mái lán cọ đơn sơ ở Khuôn Tát (xã Phú Đình), Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo – chỉ huy quân đội.
Di tích Tỉn Keo
Đồi Tỉn Keo dưới chân đèo De, núi Hồng thuộc xóm Nà Lọm, xã Lục Giã, An Toàn Khu (ATK) Định Hoá, nay thuộc xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, tỉnh Thái Nguyên nằm ở trung tâm “Thủ đô gió ngàn”, với “Địa lợi, nhân hòa” đáp ứng tiêu chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc các đồng chí bảo vệ, giúp việc khi tìm địa điểm đặt cơ quan:
Trên có núi, dưới có sông
Có đất ta trồng, có bãi ta chơi
Tiện đường sang Bộ tổng,
Thuận lối tới Trung ương
Nhà thoáng ráo, kín mái,
Gần dân, không gần đường.
Ngày 6/12/1954 quyết định thông qua phương án tác chiến mùa Xuân năm 1954 đã được thực hiện tại đây cùng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Tỉn Keo hiện là một trong những di tích quan trọng trong hệ thống các di tích lịch sử kháng chiến của ATK Định Hóa.
Thác Khuôn Tát (Thác Bảy Tầng)
Thác Khuôn Tát là một thắng cảnh của tỉnh Thái Nguyên. Thác nằm trên địa phận xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình và cách trung tâm thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 70km. Thác Khuôn Tát thuộc khu vực di tích lịch sử ATK Định Hóa, là trung tâm căn cứ địa Việt Bắc và đại bản doanh lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ 1946 – 1954. Thác Khuôn Tát được xếp hạng danh thắng cấp quốc gia vào năm 2002.
Thác Khuôn Tát (Ảnh: Đỗ Tuấn Phương)
Thác Khuôn Tát nằm giữa núi rừng hoang vu và khá yên tĩnh, xung quanh thác có nhiều cây cổ thụ. Thác bao gồm 7 tầng, nước từ trên cao đổ xuống tung bọt trắng xoá, phía dưới tạo thành dòng suối. Theo truyền thuyết của cư dân bản địa, xưa kia, các loài động vật hoang dã trong vùng thường đến đây uống nước, vào những hôm trời xanh, nước trong, mây trắng vờn trên đỉnh núi có bầy Tiên nữ từ trên trời xuống thác tắm.
Đồi chè Tân Cương
Bất cứ ai khi tới xã Tân Cương thuộc phía Tây của thành phố Thái Nguyên cũng phải trầm trồ bởi nơi đây quá đỗi đẹp và cuốn hút. Đồi chè tại đây được trồng trên khoảng diện tích rất rộng. Theo ước tính cụ thể là khoảng 1300ha. Do đó, khi đặt chân tới vùng đất này, bạn sẽ cảm thấy vô cùng thích thú. Bởi cảnh sắc thiên nhiên nơi đây vô cùng xanh mát và có sức hút rất riêng.
Đồi chè Tân Cương (Ảnh: Phan Như)
Cũng bởi khoảng cách từ trung tâm tỉnh tới đồi chè Tân Cương không quá xa nên việc đi lại và di chuyển cũng trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Bạn chỉ phải đi khoảng 10km là có thể tới được khu đồi chè này tham quan. Chính vì thế, khi có dịp tới Thái Nguyên du lịch, bạn nhất định không thể bỏ lỡ một địa điểm đẹp như khu vực đồi chè ở Tân Cương.
Hồ Suối Lạnh
Hồ Suối lạnh nằm ở thành phố Thái Nguyên với nét hoang sơ. Cách thành phố Thái Nguyên cũ chừng tầm 30km. Suối lạnh nằm dưới chân núi Hàm Lợn của dãy Tam Đảo. Đến suối bạn sẽ cảm nhận được một không gian khác lạ, chúng ta sẽ thất được cảm giác bình yên khi đến đây. Bao quanh suối là muôn vàn cây cối xanh tươi. Chúng ta có thể tắm ở đây nhưng phải cẩn thận nhé. Nước ở hồ rất trong xanh, có nhiều loài cá ở suối.
Hồ Vai Miễu
Hồ Vai Miếu nằm dưới chân ngọn núi Tam Đảo, đoạn đường để đến hồ hơi xấu, nhiều ổ gà, nhiều đá to. Đến nơi, bạn có thể thuê thuyền máy ở bến để tham quan hồ. Cảm giác ngồi thuyền giữa lòng hồ đón gió lộng, ngắm thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ rất tuyệt vời. Nước hồ trong xanh và có rất nhiều cá nên bạn có thể trổ tài câu cá và thưởng thức món cá nướng ngon tuyệt.
Hồ Ghềnh Chè
Hồ Ghềnh Chè thuộc xã Tân Cương, có diện tích 40 ha, được bao quanh bởi những cánh rừng bạch đàn, rừng mỡ bạt ngàn. Hồ Ghềnh Chè thu hút được nhiều khách đến du lịch, câu cá thưởng thức những ngụm chè thơm ngon ngồi lặng bên chiếc cần câu đợi cá ăn mồi, không khí trong lành hít một ngụm khí lạnh vào người cảm giác thư thái khó tả, nắng dịu nhẹ, làn nước xanh mát.
Hồ Ghềnh Chè (Ảnh sưu tầm)
Ngước nhìn các triền rừng tái sinh và những thảm thực vật đa dạng, phong phú bao quanh lòng hồ lòng chúng thấy thật thư thái. Mọi bon chen, vụ lợi và cuộc sống xô bồ nơi đô thị dần biến mất.
Thác Nặm Rứt
Con thác này còn có một tên gọi khác là thác Mưa Rơi. Con thác này nằm ở xã Thần Sa. Nơi đây cách trung tâm tỉnh khoảng 35km. Do đó, hành trình khám phá Thái Nguyên của bạn sẽ không quá vất vả nếu lựa chọn địa điểm này để đi. Bạn có thể đi bằng xe máy hay ô tô tùy theo nhu cầu và sở thích của mình.
Thác Nặm Rứt hay còn gọi là thác Mưa Rơi (Ảnh: luhanhvietnam.com.vn)
Cảm giác khi được đặt chân tới đây thật thích. Bởi nó khiến bạn được sống và tận hưởng bầu không khí trong lành cùng khung cảnh núi non hùng vĩ. Đặc biệt nếu được chinh phục đỉnh núi đá vôi tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng toàn bộ bức tranh thiên nhiên nơi đây tươi đẹp và cuốn hút.
Hang Phượng Hoàng – Suối Mỏ Gà
Nằm bên trái QL 1B Thái Nguyên – Lạng Sơn (km 42) trên một núi đá lớn của dãy Phượng Hoàng thuộc xã Võ Nhai. Đây là một di tích lịch sử cách mạng, thời chiến hang Phượng Hoàng thuộc căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai. Ngày 27/11/1944 đội cứu quốc quân 75 người cùng 373 hộ dân lên hang Phượng Hoàng lập căn cứ chống địch.
Hang Phượng Hoàng (Ảnh sưu tầm)
Nằm ở độ cao khoảng 500m so với chân núi, khi vượt qua hàng trăm bậc đá và leo lên đến miệng hang, bạn sẽ phải xuôi theo những bậc đá để xuống đáy hang. Khi xuống đến đáy hang sẽ có nước, và có một cây cầu nhỏ để các bạn đi qua hoặc checkin. Nhìn lên trên các bạn sẽ thấy những nhũ đá to lớn với đủ các hình dạng khác nhau. Từ đỉnh hang, những giọt nước trôi theo các nhũ đá nhỏ xuống tạo khung cảnh thích thú. Ánh sáng từ trên cửa hang và đỉnh trời rọi xuống tạo một không gian mở huyền ảo, rất thú vị cho các bạn chụp ảnh. Những ai thích mạo hiểm và khám phá có thể leo trèo lên các nhũ đá cao để ngắm cảnh vào checkin.
Suối Cửa Tử
Từ trung tâm thành phố tới khu vực suối Cửa Tử khoảng 45km. Do đó, sẽ rất thuận lợi cho việc di chuyển tới địa điểm trekking này. Đây là khu suối thuộc địa phận của xã La Bằng. Xã này nằm ở khu vực phía tây và thuộc dãy núi Tam Đảo.
Các bạn có thể đến Cửa Tử để trekking (Ảnh sưu tầm)
Điều đặc biệt đó là con suối này thuộc địa bàn xã La Bằng – một trong những xã có vùng ranh giới thuộc cả 3 khu vực đó là Thái Nguyên, Tuyên Quang và Phú Thọ.
Con suối này khởi nguồn là từ dãy núi Tam Đảo đổ xuống. Sau đó, chạy dọc và đổ xuống khu vực sông Công. Nhiều người khi nghe tới cái tên Cửa Tử lần đầu sẽ không khỏi rùng mình khiếp sợ. Tuy nhiên, khi được đặt chân tới nơi đây, bạn mới có thể hiểu và cảm nhận rõ nét nhất sự hoang sơ mộc mạc của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây.
Được mệnh danh là địa điểm trekking không hề dễ thở như các khu trekking khác. Nhưng chính điều này lại khiến nơi đây trở nên có sức hút kỳ diệu hơn đối với du khách lần đầu tới Thái Nguyên khám phá.
Chùa Hang
Lễ hội Chùa Hang, Thái Nguyên diễn ra vào ngày 19-20 tháng Giêng hàng năm (Ảnh sưu tầm)
Chùa Hang nằm ở phường Linh Sơn, cách trung tâm Tp Thái Nguyên cũ khoảng 2km. Căn cứ các văn bản lịch sử và các văn bia cổ trên vách đá trong hang thì Chùa Hang còn có tên gọi là “Tiên Lữ Động”, gắn với một huyền thoại được lưu truyền trong dân gian. Trên núi Chùa Hang thường có các vị tiên xuống dạo chơi, đánh cờ và tắm mát ở giếng Mắt Rồng, trong đó có nàng tiên thứ Bảy vì yêu người, mến cảnh nơi đây mà đã phạm vào luật tiên giới nên bị Ngọc Hoàng nổi giận đẩy vào hang vắng cấm không cho về thiên cung nữa, cho nên động trong núi mang tên “Tiên Lữ Động”. Trên vách đá của động hiện có câu đối cổ bằng chữ Hán:
Phong cảnh thiên nhiên duy đệ nhất
Danh lam nhân tạo thị vô song
Tạm dịch:
Phong cảnh thiên nhiên đẹp vào bậc nhất
Danh lam do con người tạo cũng không gì sánh được
Động Linh Sơn
Động Linh Sơn nằm một thắng cảnh đẹp nằm tại xóm núi Hột, xã Linh Sơn, là điểm thăm quan đẹp cuốn hút du khách thăm quan. Động nằm cách thành phố Thái Nguyên 6 km về hướng đông bắc, nằm trong dải núi Hột, một đỉnh núi đá vôi cách xa các bản làng.
Động Linh Sơn có hai hang đá là hang Thiên và hang Địa. Hang Thiên nằm cách tấm bia cổ ghi hàng chữ Hán “Trùng tu Linh Sơn động” có kích cỡ 1,2 x 0,8m khoảng 8m về phía đông, rộng trên 360m2 có nền hang bằng phẳng cao dân lên thành bậc tam cấp dẫn đến các bệ thờ Phật bằng đá. Cuối hang Thiên là đường lên đỉnh núi Hột về phía Tây ở độ cao đến 16 – 18m để thông xuống hang địa.
Hang địa sâu và thấp hơn hang Thiên khoảng 15m, diện tích trên 480m2 với nền hang bằng phẳng và thấp dần từ trái sang phải, có những nhũ đá với các hình tượng hình bút tháp, hình người mẹ bồng con,..vv.. rất đẹp. Trong động này hiện còn tượng phật thích ca bằng đồng và một số tượng phật son thếp vàng và nhiều tượng bằng đá trên các bệ đá.
Đền Đuổm – Núi Đuổm
Núi Đuổm, xưa gọi là Điểm Sơn, nằm kề quốc lộ 3, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 24 km về phía Tây – Bắc. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí xếp Điểm Sơn là danh thắng của đất Thái Nguyên và tả: “ Điểm Sơn… phía trước núi có phiến đá chỗ lên chỗ xuống như con rồng ngóc đầu, phía dưới có hai phiến đá lớn như hình hai con voi chầu vào. Đỉnh núi và sườn núi đều có đền”.
Cánh đồng Đuổm nhìn từ trên núi Đuổm (Ảnh: wikipedia)
Núi Đuổm thật là danh lam hiếm có. Từ xa nhìn vào, sáu ngọn núi đá tựa sáu đầu rồng. Ngọn ở phía cực Đông như mọc ra một “tháp đá” chọc thẳng lên trời xanh. Các vách đá thẳng đứng, rêu phong cổ kính. Quanh núi, nhiều cây cổ thụ đường kính gốc hơn một mét.
Đền Đuổm đã được tôn tạo và xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1993. Lễ hội đền Đuổm được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm.
Thác Đát Đắng
Đát Đắng thuộc xã Phú Xuyên, tỉnh Thái Nguyên. Từ trung tâm tỉnh Thái Nguyên theo quốc lộ 37 nối giữa Thái Nguyên và Tuyên Quang du khách mất khoảng một giờ đồng hồ đi xe máy đến xã Phú Xuyên rồi đi tiếp hơn 2 km đường mòn chạy tới gần chân đát. Sau khi gửi xe và bách bộ khoảng 2 km băng qua những con suối, những bãi đá lởm chởm, những ngọn đồi xanh cỏ, thác Đát Đắng hiện ra tầng tầng, lớp lớp chắc chắn sẽ không phụ công sức của những vị khách đam mê du lịch và khám phá.
Thác Đát Đắng (Ảnh sưu tầm)
Đát Đắng khá xa đường quốc lộ, chính vì thế mà điểm hấp dẫn của nơi này chính là cảm giác được hòa mình vào thiên nhiên, được đắm chìm trong những cánh rừng nguyên sinh xanh mướt, trong một bầu không khí trong lành, mát mẻ, và những dòng thác tuôn chảy.
Vào Đát Đắng ta như lạc vào một không gian hoàn toàn mới, thoát khỏi cái ồn ã, xô bồ nơi phố thị, hít thở không khí trong lành và cảm nhận âm thanh núi rừng đang ở quanh ta, hòa với ta. Dòng thác từ trên cao đổ xuống bọt tung trắng xóa, luồn qua những khe đá tai mèo rồi đổ xuống những hủng sâu. Nước từ trong khe núi chảy ra trong vắt, mát lạnh, giữa cái thời tiết oi ả, chói chang của mùa hè mà được ngâm mình trong dòng thác trong veo thì không gì thú vị bằng.
Suối Tiên
Suối Tiên thuộc xóm Tân Lập II, xã Văn Lăng, tỉnh Thái Nguyên; cách trung tâm thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 30km về phía bắc. Từ trung tâm thành phố Thái nguyên cũ theo quốc lộ 1B đến km số 7 rẽ trái đường đi xã Văn Lăng, suối cách trung tâm xã 2km (có biển chỉ dẫn).
Suối Tiên có lẽ cũng giống như vô vàn những con suối khác ở dòng nước trong vắt trườn lên lớp cát trắng phau, những con ốc nhỏ bám chặt vào tảng đá xanh rêu. Nhưng suối Tiên không giống những con suối thông thường ở chỗ có nhiều ghềnh đá dềnh lên mặt nước như lưng những chú voi khổng lồ, có những đoạn nước chảy trông giống như chú cá với những chiếc vẩy khổng lồ đang trườn đi.
Du lịch tâm linh
Chùa Phù Liễn
Chùa Phù Liễn có diện tích khoảng 7000m2, chùa tọa lạc trên một quả đồi cao thóang đãng với nhiều cây xanh cổ thụ. Chùa gồm có nhà Tam Bảo, Điện mẫu, nhà thờ tổ và khu vườn tháp cổ, trước sân chùa có tượng phật Bà Quan âm linh diệu.
Chùa Phù Liễn (Ảnh: Lê Hồng)
Trong Chùa có bức đại tự hoành tráng gắn bốn chữ vàng: “Linh sơn phúc địa” (có nghĩa là núi thiêng, đất lành). Hàng năm vào ngày 12/1 Âm lịch, các Tăng ni, Phật tử, nhân dân trong và ngoài tỉnh về đây lễ phật cầu phúc cầu tài, tham gia các trò chơi chọi gà, đánh đu, cờ tướng, bình thơ, đọc văn…
Chùa Phù Liễn là nơi gắn với nhiều dự kiện lịch sử. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chùa là nơi che chở, nuôi dấu một số nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám và Đội Cấn. Chùa Phù Liễn từ xưa đã được coi là một chốn danh lam, là nơi hành hương lễ phật của đông đảo phật tử trong và ngoài tỉnh, được thể hiện qua câu ca cổ:
Khi Mỏ Bạch, khi Xương Rồng
Khi Phù Liễn tự, khi Đồng Mỗ am
Chùa Đán
Chùa Đán cách trung tâm Tp Thái Nguyên cũ 5 km về phía Tây, ở địa phận xóm Chùa, phường Quyết Thắng. Đứng bên dòng sông Công, vẳng nghe tiếng mõ rơi vào chiều tím, lòng cảm hoài về một miền xa ngái đã đi qua bao đời kiếp con người, nhưng có gì đó gần gụi, thương mến mà thiêng liêng. Tiếng mõ chùa đã làm tôi ngẩn ngơ, nghĩ suy và chợt nhận ra ở nơi này, có một mái chùa che chở bao đức tin con người, và là nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lựa chọn làm điểm tập kết khi đưa quân chủ lực từ Cây đa Tân Trào (Sơn Dương – Tuyên Quang) sang giải phóng TX Thái Nguyên (ngày 16-8-1945).
Chùa Thịnh Đán (Ảnh sưu tầm)
Bắt đầu từ cổng vào đã thấy sự tôn nghiêm, nhưng gần gũi. Nhà Tam Bảo với từng cột đá, mái vút cong cổ kính, quen thuộc. Trước sân có Đức Phật tổ ngồi thiền; liền sân chùa là ngôi nhà sàn mang kiến trúc của đồng bào Tày, Nùng Việt Bắc dựng lên làm Nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 2011, chùa Thịnh Đán được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Chùa Ha
Chùa Ha tên chữ là Bà Ha tự, được dựng từ đầu thế kỷ thứ XVIII ở làng Lộng, xã Phú Bình. Chùa tọa trên một quả đồi thoải, rộng hơn 2,5ha. Quanh chùa còn nhiều cây cổ thụ bản địa tạo nên một khung cảnh đẹp tĩnh mịch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ, còn giữ được những nét cơ bản kiểu dáng kiến trúc thời Lê.
Chùa có kiến thức theo kiểu chữ công với 7 gian tiền đường và 4 gian thượng điện, có khu nhà thờ Tổ, thờ Mẫu. Tòa tiền đường có 7 gian, dài 16m, rộng 5,5m. Tòa thượng điền có 4 gian, diện tích rộng 70m2. Nhà thờ Tổ và nhà thờ Mẫu gồm 7 gian, diện tích 90m2. Chùa được trùng tu vào các năm 1716 và 1889. Mỗi năm, đặc biệt là dịp tết đến xuân về chùa thu hút hàng ngàn lượt khách trong và ngoài tỉnh đến chiêm bái và vãn cảnh.
Đình Hộ Lệnh
Di tích đình Hộ Lệnh nằm ở xóm Trung của làng Hộ Lệnh, thuộc xã Điềm Thuỵ. Cách trung tâm thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 22 km về phía Đông Nam. Xung quanh quần thể di tích đình – chùa Hộ Lệnh là xóm làng, có đồng ruộng thoáng mát xen kẽ với gò đồi tự nhiên, tạo nên phong cảnh đẹp, hấp dẫn du khách khi đến tham quan.
Đình Hộ Lênh được xây dựng sau khi cơ cấu làng xã được hình thành và phát triển, dân cư các nơi tụ về đây sinh sống. Theo văn bia ” Hậu Thần Bi Ký” còn được lưu giữ tại đình Hộ Lệnh đình được xây dựng vào triều Lê Vĩnh Hựu năm thứ 4 ( 1738) có chép : Làng Hộ Lệnh xưa thuộc thôn Hộ Lệnh, xã Triều Dương, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình. Tra cứu trong sách “Tên làng, xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” thì ghi làng Hộ Lệnh thuộc xã Triều Dương, tổng nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên. Qua nghiên cứu sử sách và số hương ước xưa của địa phương, dựa trên nguồn sử liệu và các chứng tích còn được lưu giữ tại đình đã minh chứng cho thấy làng Hộ Lệnh là một làng cổ đã được hình thành lâu đời, có làng rồi mới dựng đình vào khoảng từ thế kỷ XVII. Với giá trị tiêu biểu trên, di tích đình Hộ Lệnh được. công nhận là di tích lich su van hoa cấp quốc gia vào năm 2001.
Đình Phương Độ
Nằm ở làng Phương Độ (xã Phú Bình), Đình Phương Độ được xây dựng vào thế kỷ 15 thờ Đức thánh Dương Tự Minh. Ngôi đình không những là nơi thờ tự, lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống, những kiến trúc cổ độc đáo mà trong cuộc kháng chiến chống Pháp nơi đây còn là một cơ sở cách mạng quan trọng của Đảng.
Đình Phương Độ là một di tích mang đặc trưng của kiến trúc thời Lê, với mái đình được làm bằng ngói mũi, bốn góc cong vút ẩn hiện dưới tán cây đa cổ thụ. Gác chuông được xây 3 tầng, trước cổng đình là ao bán nguyệt. Đình được dựng lên bởi 48 cột lim có đường kính 0,3-0,5m. Bốn góc đình được thiết kế hình mũi cong tạo cho đình một vẻ đẹp thanh thoát nhẹ nhàng. Trên mái đình được trang trí theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Ở trong đình, trên-dưới các đầu trụ, đầu cầu và các xà ngang, xà dọc đều được trang trí hoa văn, chạm trổ các bộ “Tứ linh” (Long-Ly-Quy- Phượng) rất khéo léo, công phu.
Hàng năm vào Rằm tháng giêng, ngày 4 tháng tư, mùng 10 tháng mười (Âm lịch) và các ngày lễ tết người dân Phương Độ vẫn mở hội truyền thống, có rước kiệu, múa lân, tế lễ, vật, chọi gà và vui văn nghệ thu hút đông đảo khách thập phương gần xa.
Đền Lục Giáp
Đền Lục Giáp thuộc xóm Dương, phường Phổ Yên. Thời xa xưa đền là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của dân làng vùng Sơn Cốt. Sau để tưởng nhớ công lao người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh (thời Lý) và tướng Lưu Nhân Chú (thời Lê) nhân dân ở đây đã lập đền thờ hai ông.
Đền nằm trên bãi đất rộng bên bờ sông Công, nhìn ra đồng ruộng phì nhiêu, làng xóm trù phú yên vui gợi vẻ nên thơ yên ả của một làng quê đất việt. Khu vực chính của đền Lục Giáp rộng 1.360m2 gồm nhà tiền tế và hậu cung liền nhau, trước đền có sân rộng, giữa sân có bệ để cắm hương hoa. Đền Lục Giáp được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993. Hằng năm đền mở hội từ ngày 15 tháng 3 (âm lịch) tưởng niệm các danh nhân Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Đỗ Cận… Lễ hội có dâng hương tế lễ, rước kiệu, hát ví, đấu cờ, đấu vật và đua thuyền trên sông Công… thu hút đông đảo nhân dân tham dự.
Đền Giá
Đền Giá thờ Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng) và Mạn Điền Quốc Vương, người nông dân đất Thái Nguyên theo Thánh Gióng đi đánh giặc Ân. Đền được dựng từ xa xưa trên vùng đất cổ thuộc phường Trung Thành. Lễ hội đền Giá được tổ chức mỗi năm hai lần. Lễ hội chính được tổ chức vào ngày mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng Âm lịch. Lễ hội lần thứ hai được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng 4 âm lịch.
Khu di tích khảo cổ Thần Sa
Khu di tích Thần Sa nằm gọn trong địa phận xã Thần Sa, cách thành phố Thái Nguyên cũ khoảng 40 km về phía bắc. Nơi đây những di chỉ khảo cổ đồ đá về con người sống cách chúng ta chừng 2 – 3 vạn năm được phát hiện ở hang Phiềng Tung (hang Miệng Hổ), Ngườm thuộc vùng Thần Sa chứng minh rằng tại đây đã tồn tại một nền văn hoá cổ gọi là văn hoá Thần Sa. Đây là nền văn hoá cổ nhất được biết đến cho tới nay ở Việt Nam và cả vùng lục địa Đông Nam Á.
Những dãy núi đá vôi dày đặc thuộc phần cuối của sơn hệ Bắc Sơn và những dải thung lũng hẹp dọc theo đôi bờ sông Thần Sa là nét đặc trưng của địa hình Thần Sa. Chính trong các hang động ở Thần Sa, vào những năm 70 – 80 của thế kỉ XX các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được một loạt các di chỉ khảo cổ có niên đại từ trung kì đá cũ đến sơ kì thời đại đồ đá mới (30.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay) như: Phiêng Tung, Ngườm, Nà Ngùn, Thắm Choong, Hạ Sơn1, Hạ Sơn 2…
Hang Phiêng Tung (Miệng Hổ)
Hang nằm tại xã Thần Sa, có hình thù như miệng con hổ nên nhân dân trong vùng gọi là hang Miệng Hổ. Hang rộng khoảng 10m, dài 20m cao 7m, cửa quay về hướng đông nam, cao hơn thung lũng phía dưới khoảng 50m, cách sông Nghinh Tường khoảng 50m về phía bắc. Bên trong hang có tầng ngách nhỏ, không chứa di vật khảo cổ. Nền hang dốc thoải vào bên trong, trên có nhiều đá tảng lăn. Hang này rất thuận tiện cho người nguyên thủy cư trú.
Con sông nhỏ Nghinh tường nước chảy quanh năm từ phía Bắc qua phía đông và phía nam của chân núi Mèo. Đoạn qua sông này về mùa cạn nổi lên những bãi đá cuội lớn, đây chính là nguồn nguyên liệu phong phú của người nguyên thủy dùng để chế tác công cụ. Điểm nổi bật của bộ sưu tập Phiêng Tung là sự phổ biến mảnh tước nhỏ có vết tu chỉnh, trong đó công cụ mõi nhọn và công cụ nạo cắt chiếm số lượng lớn.
Mái đá Ngườm
Di chỉ khảo cổ Mái đá Ngườm (Ảnh sưu tầm)
Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa nằm trên sườn dãy núi Ngườm thuộc bản Kim Sơn, xã Thần Sa, tỉnh Thái Nguyên. Mái Đá Ngườm là một di tích khảo cổ học nổi tiếng đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia.
Đây là một trong những địa điểm khảo cổ thuộc cụm di tích khảo cổ Thần Sa. Các hiện vật được tìm thấy ở Mái Đá Ngườm thuộc trung kỳ đồ đá cũ có niên đại cách ngày nay từ 18.000 – 30.000 năm. Là một mái đá cao chừng 30m, rộng 60m, cửa hang nằm ở hướng bắc. Hố khai quật di chỉ Ngườm cho thấy có 4 địa tầng văn hóa khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của các nền văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2… ở tầng thứ 3 là thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hóa thứ 4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung và Ngườm.
Những công cụ mũi nhọn, công cụ nạo và kỹ thuật gia công lần thứ 2 giống như công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hóa Mút-xchi-ê (Moustér), nền văn hóa tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Thái Nguyên (Ảnh sưu tầm)
Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam nằm ở trung tâm tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô Hà Nội 80km, đi dọc theo quốc lộ 3 về phía Bắc. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam được thành lập năm 1960. Thời kỳ đầu mang tên Bảo tàng Việt Bắc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Bắc.
Hiện nay, hệ thống trưng bày ngoài trời Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam đã vào giai đoạn hoàn thiện. Không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du – Bắc Bộ, Miền Trung – Ven biển, Trường Sơn – Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ đã định hình cơ bản. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách.
Vườn Quốc gia Ba Bể
Vườn quốc gia Ba Bể nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, cách trung tâm thành phố Bắc Kạn cũ khoảng 70km và cách trung tâm Hà Nội 250km về phía Bắc.
Vườn quốc gia có tổng diện tích vườn là 10.048ha, trải dài từ vĩ độ 22 06’12”N- 22 08’14”N và kinh độ từ 105 09’07”E- 105 12’22”E. Vườn quốc gia Ba Bể nằm trong khu vực thuộc xã Ba Bể, tỉnh Thái Nguyên, nơi đây hồ được bao phủ bởi 2 cánh cung Ngân Sơn và Bắc Sơn. Nếu như bạn là một người ham đi du lịch, có sở thích yêu cảnh quan núi rừng, nương rẫy, thiên nhiên hùng vĩ thì hãy xách balo lên và tận hưởng một chuyến đi chơi thư giãn sau một tuần làm việc mệt nhọc.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Ba Bể
Hồ Ba Bể
Hồ Ba Bể nằm trong khu vực vườn Quốc gia Ba Bể, thuộc xã Ba Bể, tỉnh Thái Nguyên. Nằm ở độ cao 150m so với mực nước biển, cách Thành phố Bắc Kạn cũ khoảng 70 km về phía tây bắc, hồ Ba Bể là một trong những di tích danh thắng tự nhiên đẹp, độc đáo nhất Việt Nam.
Hồ Ba Bể (Ảnh sưu tầm)
Hồ Ba Bể được bao quanh bởi hai cánh cung Ngân Sơn và Bắc Sơn. Thiên nhiên ưu đãi, văn hoá đặc sắc và những câu chuyện truyền thuyết đã thu hút du khách từ mọi miền Tổ quốc và du khách quốc tế đến với vùng đất này.
Động Puông
Động Puông là một hang động lớn ở phía Bắc Việt Nam, thuộc vườn Quốc gia Ba Bể tỉnh Thái Nguyên. cách trung tâm xã Chợ Rã khoảng 5 Km. Động Puông dài 300 mét, cao hơn 30 mét hình thành khi con sông Năng chảy xuyên qua bên dưới núi đá vôi Lũng Nham với vách đá dựng đứng và nhiều thạch nhũ có hình dạng và màu sắc khác nhau bên trong động.
Để tham quan động Puông du khách phải ngồi thuyền trên dòng sông Năng, ngồi thuyền đi được một đoạn khoảng 400 mét, du khách sẽ thấy cửa Động Puông hiện ra, nhìn từ xa bạn chỉ thấy nó rất nhỏ, nhưng đến khi lại gần bạn mới thấy thật sự ngạc nhiên về hùng vỹ và bí hiểm khiến du khách nao nức được khám phá.
Đi thuyền vào trong động Puông (Ảnh sưu tầm)
Bên trong động, những dải thạch nhủ hình thù kỳ lạ rủ xuống soi bóng lung linh trên dòng nước. Càng vào sâu bên trong, tuy lòng động khá tối nhưng vẫn đủ sức hấp dẫn du khách, trong động là nơi trú ngụ của hàng vạn con dơi đang sinh sống, khi du khách vào tham quan động, âm thanh bước chân, ánh sáng đèn pin và tiếng trò chuyện vang vọng làm dơi bơi ra nháo nhác trên nóc động.
Thác Đầu Đẳng
Sông Năng khi chảy đến bản Húa Tạng thì đổ xuống từ triền đá lớn, tạo thành dòng Thác Đầu Đẳng kỳ vĩ. Thác Đầu Đẳng hòa quyện với cảnh rừng nguyên sinh của Vườn quốc gia Ba Bể. Vị trí thác nằm cách Hồ Ba Bể chừng 4km về phía Tây, nơi tiếp giáp giữa tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang.
Thác Đầu Đẳng (Ảnh sưu tầm)
Thác Đầu Đẳng có chiều dài hơn 1.000 mét, tuôn chảy qua những khối đá muôn hình, chất chồng lên nhau như thạch trận. Đôi bờ là những vạt rừng mọc ken dày, xanh tốt, phủ tán lòa xòa ra tận mép nước.
Dòng thác lúc ầm ào, khi rẽ dòng khúc khuỷu, có đoạn lại êm đềm thơ mộng… Đến tham quan Thác Đầu Đẳng, ngồi trên những phiến đá lớn hay đứng trên ban công gỗ, cho bạn thỏa thích ngắm nhìn đoạn thác cuộn trào, tung bọt trắng xóa.
Ao Tiên
Ao Tiên là một hồ nước nhỏ, rộng chừng 3 ha nằm trên đỉnh núi. Bị bao bọc bởi rừng nhiệt đới nên khí hậu ở đây rất mát mẻ và trong lành. Ao Tiên cách biệt với hồ, không có nguồn nước chảy vào hay thoát ra, vì thế nước trong veo.
Ao Tiên (Ảnh sưu tầm)
Ao Tiên nằm ở góc hồ ba của hồ Ba Bể, là một hồ nước nhỏ nằm lọt giữa thung lũng của những cánh rừng nguyên sinh, có những mạch ngầm thông nhau giữa Ao Tiên và hồ Ba Bể. Đây chính là nét độc đáo của Ao Tiên, nơi đây còn là nơi cư trú của nhiều loài động thực vật thủy sinh, cũng như nét đặc trưng khác của vườn Quốc gia Ba Bể.
Đảo Bà Góa
Hòn đảo Bà Góa nhỏ xinh nổi lên giữa hồ 1 (Pé Lèng) của hồ Ba Bể. Tương truyền, đảo chính là nơi sinh sống của 2 mẹ con bà góa tốt bụng năm xưa đã dùng 2 chiếc thuyền độc mộc đi cứu giúp dân làng trong trận đại hồng thủy tại hồ Ba Bể.
Hoàng hôn đảo Bà Góa (Ảnh sưu tầm)
Nhìn xa xa, đảo như một “hòn non bộ” giữa lòng Ba Bể xanh biêng biếc. Đảo Bà Góa được người dân địa phương gọi là Pò Giả Mải, được hình thành bởi những phiến đá to nhỏ xếp chồng lên nhau, quanh năm cây cối xanh tốt, rễ cây len lỏi, ôm trọn những triền đá khiến cây và đá cuốn quýt một thể, dù giữa sóng nước mênh mông hay mưa giông báo giật, nó vẫn hiên ngang, tĩnh lặng ở đó, mang cho đời thêm cảnh đẹp thiên nhiên.
Bản du lịch Pác Ngòi
Bản Pác Ngòi nằm bình yên bên hồ Ba Bể (Ảnh sưu tầm)
Nằm trọn trong vùng lõi Vườn Quốc gia Ba Bể, Pác Ngòi là địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bao dân tộc Tày, với những nét văn hóa độc đáo. Theo đánh giá, Pác Ngòi là một trong ít những thôn còn lưu giữ được những phong tục, tập quán mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Tày.
Đến với thôn Pác Ngòi, du khách không chỉ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp mà còn được khám phá, trải nghiệm những điều thú vị trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư nơi đây. Dù có sự giao thoa văn hóa và chịu ít nhiều tác động từ hoạt động du lịch nhưng nhiều nét văn hóa truyền thống từ bao đời của đồng bào Tày Pác Ngòi vẫn được gìn giữ như một vốn quý. Những ngôi nhà sàn cổ có tuổi đời vài chục đến cả trăm năm luôn được gìn giữ và tôn tạo như một minh chứng cụ thể cho nét văn hóa đặc trưng của người Tày vẫn được bảo lưu. Cùng với đó là nghề dệt thổ cẩm truyền thống dù gặp một chút khó khăn cho đầu ra nhưng vẫn được người dân Pác Ngòi duy trì và tìm hướng đi mới.
Động Hua Mạ
Động Hua Mạ nằm trên lưng chừng ngọn núi Cô Đơn, giữa khu “Lèo Pèn” soi bóng xuống dòng sông Lèng, gần Hồ Ba Bể. Nơi đây không những gắn với sự tích linh thiêng mà trong động còn có rất nhiều nhũ đá huyền ảo, trở thành một danh thắng hấp dẫn của khu vực Vườn quốc gia Ba Bể.
Động Hua Mạ (Ảnh sưu tầm)
Động nằm trên lưng chừng núi, ở độ cao 350m so với mực nước biển, quanh năm cây cối xanh rì, rậm rạp. Đường từ chân núi lên động đã được xây thành những bậc thang, dẫn bước đến cửa Động Hua Mạ, rộng 3m, cao 5m. Cửa vào ở phía Đông và thông ra ở phía Nam.
Bước vào trong, hang Động Hua Mạ mở ra rộng lớn, khoảng 1ha với chiều dài hơn 700m, trần động có chỗ cao tới 40-50m. Độ dốc của hang thoai thoải, có chỗ tạo vách cao 3m, bên dưới có một bãi đá đổ khổng lồ dài chừng 164m, chiều rộng chỗ nhỏ nhất cũng 10m, chỗ rộng nhất lên đến 43m.
Thác Bạc Bản Vàng
Thác Bạc nằm ở địa bàn xã Đồng Phúc thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Bể. Từ đỉnh đèo Khau Vàng nhìn Thác Bạc như một dải lụa trắng.
Thác Bạc, Ba Bể (Ảnh sưu tầm)
Thác có chiều cao khoảng 40m, có vách đá gần như thẳng đứng, ẩn trong màu xanh của rừng cây, phía dưới có các vũng nước trong vắt cùng với những hòn đá to, thoai thoải, bạn có thể tắm, hưởng thụ một không gian yên bình, là điểm du lịch lý tưởng cho những ngày hè oi bức.
Dòng chảy của nước hiền hòa mà cuồn cuộn đổ xuống từ trên cao, đập mạnh vào những tảng đá dưới chân thác làm tung lên hàng ngàn bọt nước trắng xóa. Cảm giác được ngâm mình thư giãn trong dòng nước mát rượi, bao mệt nhọc sẽ tan biến, chỉ còn lại sự thư thái đầy sảng khoái.
Đền An Mã
Đền An Mã (An Mạ) toạ lạc trên đảo An Mã giữa hồ Ba Bể. Đây là ngôi đền cổ được trung tu xây dựng lại năm 2007. Đền thờ Phật, Mẫu Thượng Ngàn, Chúa Sơn Trang, Đức Thánh Trần…
Đền An Mã (Ảnh sưu tầm)
Tương truyền: Đền là nơi thờ các vị trung thần nhà Mạc trong cuộc chiến tranh phong kiến thời Lê Mạc, sau khi bị thua trận đã chạy đến động Puông rồi tuẫn tiết tại đó. Để tưởng nhớ các vị trung thần, người dân nơi đây đã dựng đền thờ họ Mạc, song sợ bị quan quân nhà Lê trả thù nên đã đổi tên thành đền thờ họ Ma. An Mạ theo tiếng dân tộc Tày có nghĩa là “mồ yên mả đẹp” nơi yên nghỉ của các trung thần họ Mạc.
Đền An Mã là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của người dân địa phương, khách thập phương và cũng là nơi dâng lễ hội xuân Ba Bể tổ chức vào ngày 10 tháng giêng. Hội đền An Mã được tổ chức vào ngày 6 tháng hai âm lịch hàng năm
Động Nả Phoòng
Động Nả Phoòng là một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ nằm trong quần thể khu du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể. Động có chiều dài khoảng 700m, cao khoảng 180m có dòng suối chảy ngầm từ xã Nam Cường chảy ngầm đi qua động sang bản Bó Lù nơi con suối đổ vào Hồ Ba Bể.
Với địa hình khu vực hiểm trở, nên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, động Nả Phoòng được chọn là nơi đặt trụ sở Đài Tiếng nói Việt Nam (1950 – 1954).
Động Nàng Tiên, Na Rỳ
Động Nàng Tiên thuộc xã Na Rì, tỉnh Thái Nguyên, là một hang đá tự nhiên có từ lâu đời, đã được Bộ Văn hoá – Thể Thao và Du Lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 1999. Không chỉ nổi tiếng với cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà vẻ đẹp của hang động nơi đây còn gắn với biết bao câu chuyện truyền thuyết huyền bí.
Bên trong động Nàng Tiên ở Na Rì, Bắc Kạn (Ảnh sưu tầm)
Là một hang đá tự nhiên ăn sâu xuống lòng núi khoảng 60m, cửa động cao 6m, rộng 6m, khẩu độ cao của động từ 30-50m. Từ cửa hang vào trong động du khách sẽ được chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp do các nhũ đá, cột đá tạo nên. Cảnh cảnh rồng bay, phượng múa bằng các nhũ đá huyền ảo lung linh ánh bạc thật hấp dẫn. Những thửa ruộng bậc thang có dòng nước mát chảy xung quanh được người dân gọi là ruộng tiên, suối tiên trông thật thích mắt. Xung quanh động là những hang ngách nhỏ có chiều dài từ chục mét đến hàng trăm mét, có một số đường ngách thông ra sườn núi làm cho động Nàng Tiên huyền bí và thơ mộng.
Thác Nà Khoang
Khu vực thác có diện tích khoảng 12ha, là nơi hợp thành của 2 con suối lớn, đó là dòng suối Nà Đeng chảy qua khe núi Lũng Chang, con suối nhỏ bắt nguồn từ đỉnh núi Phia Sliểng chảy từ hướng Tây Nam xuống khoảng 88m thì hợp thủy với dòng suối Nà Đeng, với độ dốc lớn đã tạo thành hệ thống thác 4 tầng dài khoảng 600m, chiều rộng trung bình 15m, sau đó chảy xuống suối Bản Mạch.
Khu du lịch sinh thái thác Nà Khoang (Ảnh sưu tầm)
Thác Nà khoang được ví như một đóa hoa dịu dàng mà đài hoa là ngọn thác cao nhất còn các cánh hoa là những dòng thác nhỏ nhấp nhô tỏa ra trên những phiến đá. Khu vực xung quanh thác chủ yếu là rừng tái sinh, có độ che phủ trung bình từ 75% – 85%, về động vật có nhiều loài chim, sóc, bò sát, cá sinh sống.
Đèo Gió, Ngân Sơn
Đèo Gió nằm trên trục đường Quốc lộ 3 đoạn từ Thái Nguyên lên Cao Bằng, cách trung tâm huyện Ngân Sơn cũ khoảng 10km về phía nam. Nằm ở độ cao 800m so với mặt nước biển, về mùa hè nhiệt độ trung bình 250C.
Bạn có thể tìm mua một số đặc sản của Bắc Kạn tại đây (Ảnh sưu tầm)
Đèo Gió là điểm dừng nghỉ và mua các loại hoa quả, nông, lâm thổ sản (Đào, lê, hồng không hạt, gạo nương, hoa phong lan rừng mật ong rừng và các loại thuốc quý) của du khách trước khi lên xe xuống đèo tiếp tục lên Cao Bằng hoặc về thị xã Bắc Kạn./.
Hồ sinh thái Bản Chang
Hồ Bản Chang thuộc địa phận xã Ngân Sơn, cách Trung tâm huyện huyện Ngân Sơn cũ khoảng 6 Km về phía nam, giáp với tuyến Quốc lộ số 3 đường đi Cao Bằng. Là một hồ nước tự nhiên tuyệt đẹp có hình bán nguyệt, địa thế lý tưởng, nằm trong thung lũng, trên hồ có một số đảo nhỏ, nơi cư trú của những đàn vịt trời, ngỗng trời và các loài cò. Trong hồ có nhiều loại cá, có con nặng hàng chục cân.
Hồ sinh thái Bản Chang (Ảnh sưu tầm)
Diện tích mặt Hồ khoảng 150ha, xung quanh là những cánh rừng thông bạt ngàn, những đồi, núi thấp với bạt ngàn hoa sim tím. Khí hậu nơi đây đặc biệt trong lành mát mẻ, phù hợp để đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và các hoạt động du lịch tập thể như: chèo thuyền, bơi lội, câu cá, cắm trại…
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kim Hỷ
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ nằm trên địa bàn các xã Văn Lang, Côn Minh và Vĩnh Thông. Tổng diện tích 14.772ha.
Kim Hỷ, Bắc Kạn (Ảnh sưu tầm)
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ có 1.072 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 608 chi, 172 họ, 5 ngành. Trong đó có tổng số 72 loài thực vật có giá trị bảo tồn được xếp vào các nhóm như sau: có 59 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam; có 22 loài có tên trong Danh lục đỏ IUCN. Các kết quả điều tra đã ghi nhận được tại Khu bảo tồn có 99 loài thú thuộc 26 họ, 8 bộ; 256 loài chim thuộc 50 họ, 16 bộ; 64 loài bò sát thuộc 14 họ, 2 bộ; 39 loài ếch nhái thuộc 8 họ, 2 bộ. Trong đó có 53 loài có tên trong Sánh đỏ Việt Nam; 24 loài có tên trong Danh sách Đỏ IUCN; 34 loài được ghi trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Một số loài động vật nguy cấp, quý hiếm hiện có trong khu bảo tồn như Cu li lớn, Cu li nhỏ, Khi vàng, Voọc đen má trắng, Hươu xạ, Gà lôi trắng, Gà tiền mặt vàng…
Du lịch văn hóa lịch sử
Di tích Nà Tu
Di tích lịch sử Nà Tu thuộc xã Cẩm Giàng, nằm cạnh quốc lộ 3. Đây là nơi đóng quân của phân đội thanh niên xung phong 312 làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Nà Cù và đoạn đường Nà Cù – Phủ Thông trong thời kỳ chống Pháp.
Ngày 28/3/1951 trên đường đi công tác, Bác Hồ đã ghé thăm liên phân đội thanh niên xung phong 312. Sau khi ân cần thăm hỏi và căn dặn các đội viên khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, Bác đã tặng đơn vị thanh niên xung phong 312 bốn câu thơ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.”
Di tích Đồn Phủ Thông
Đồn Phủ Thông, cách ngã ba Phủ Thông 300m (điểm giao nhau giữa đường quốc lộ 3 và đường 258) thuộc xã Phủ Thông, cách thành phố Bắc Kạn cũ khoảng 18 km về phía bắc. Đây là nơi quân đội Pháp chiếm đóng và xây đồn kiên cố từ năm 1947.
Tại đây quân ta đã 3 lần tập kích tấn công đồn Phủ Thông, đây là những trận công đồn đầu tiên khẳng định bước trưởng thành của quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời là cuộc tập dượt, rút kinh nghiệm để đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào năm 1954.
Di tích Đèo Giàng
Đèo Giàng nằm trên trục đường quốc lộ 3 đoạn từ Thái Nguyên đi Cao Bằng, cách thành phố Bắc Kạn cũ khoảng 24km về phía bắc.
Trên đường lên đèo Giàng (Ảnh sưu tầm)
Khu di tích lịch sử Đèo Giàng, nằm trên tuyến đường Quốc lộ số 3, đường đi Cao Bằng, di tích nằm giữa 2 huyện Ngân sơn và Bạch Thông, nơi đây trong kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vang dội, đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc đó là trân tập kích trên đường quốc lộ 3.
Từ trận đánh vang dội này, Đèo Giàng đã trở thành địa danh lịch sử gắn liền với những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong Chiến dịch phản công Việt Bắc- Thu Đông năm 1947. Di tích lịch sử Đèo Giàng trở thành niềm tự hào của quân dân Bắc Kạn, của quân đội nhân dân Việt Nam.
Khu ATK – Chợ Đồn
Chợ Đồn nằm trong quần thể di tích lịch sử vùng chiến khu Việt Bắc, nơi ghi dấu ấn hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Di tích lịch sử Khuổi Linh – ATK Chợ Đồn-Bắc Kạn (Ảnh sưu tầm)
Trong thời gian từ năm 1947 đến 1952, hầu hết các cơ quan Trung ương đã đóng ở huyện Chợ Đồn như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Cơ quan Vô tuyến điện, Nha kỹ thuật quân sự, Trường Quân chính, Xưởng quân giới, Xưởng in báo Cứu Quốc, Trạm phẫu thuật quân y…
Hiện nay quần thể di tích lịch sử ATK – Chợ Đồn với 06 di tích lịch sử cấp quốc gia (Bản Ca, Nà Pậu, Khuổi Linh, Bản Bẳng, Nà Quân, Đồi Khau Mạ), 04 di tích lịch sử cấp tỉnh (Nà Pay, Phja Tắc, Đồi Khuổi Đăm, Nà Kiến) và 16 di tích đã kiểm kê.
Đến với ATK – Chợ Đồn, ngoài tham quan các di tích lịch sử cách mạng ghi dấu ấn hào hùng của dân tộc, du khách còn được tìm hiểu những nét đẹp văn hoá truyền thống của người dân nơi đây và chứng kiến những đổi thay trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng thân yêu này.
Du lịch Văn hóa Lễ hội
Lễ hội xuân Ba Bể
Hội xuân Ba Bể được tổ chức trong 3 ngày mùng 9, 10 và 11 tháng Giêng. Đây là lễ hội đầu năm của đồng bào các dân tộc vùng hồ Ba Bể, gồm 2 phần lễ và hội. Lễ hội Xuân Ba Bể được tổ chức tại xã Ba Bể. Đây là Lễ hội truyền thống đầu năm, thể hiện những nét văn hoá đặc trưng của người dân địa phương. Đây còn là lễ hội xuân lớn nhất của tỉnh Thái Nguyên, tổ chức thường niên nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhà nhà no ấm.
Lễ hội Xuân Ba Bể (Ảnh sưu tầm)
Lễ hội xuân Ba Bể năm nào cũng là nơi phô diễn những bản sắc dân tộc của đồng bào địa phương với nhiều trò chơi hấp dẫn thu hút nhiều bà con các dân tộc trong vùng đến vui. Lễ hội cũng giúp cho khách thập phương hiểu thêm về con người và truyền thống văn hoá nơi đây. Sôi động nhất là đua thuyền trên hồ Ba Bể, một trong những trò chơi hấp dẫn thu hút nhiều người đến xem
Lễ hội lồng tồng Bằng Vân
Lễ hội lồng tồng Bằng Vân được tổ chức tại xã Bằng Vân vào ngày 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, gồm 2 phần lễ và hội. Phần lễ cầu cho mưa thuận, gió hòa, nhân an, vật thịnh, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội có các trò chơi dân gian như: Kéo co, tung còn, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, bịt mắt bắt dê; hát đối đáp giao duyên shi, lượn (Tày, Nùng), Páo dung (Dao).
Lễ hội Lồng tồng Bằng Vân với rất nhiều hoạt động thú vị (Ảnh sưu tầm)
Đặc biệt là du khách còn được thưởng thức những câu sli, câu lượn, câu then mộc mạc mà sâu lắng của chính những người dân lao động trong địa phương. Nhiều nét văn hóa truyền thống được khôi phục, giữ gìn và phát huy.
Lễ hội chợ tình Xuân Dương
Không nổi tiếng như chợ tình Khâu Vai ở Tuyên Quang hay chợ tình Sa Pa của Lào Cai, nhưng chợ tình Xuân Dương lại mang trong mình những nét văn hóa hết sức đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng.
Lễ hội chợ tình Xuân Dương (Ảnh sưu tầm)
Tại nơi tổ chức hội chợ truyền thống không có nhà trọ, nhà nghỉ, khách vào dự hội chỉ có cách hoặc vào ngủ nhờ nhà người dân quanh đó hoặc đi gần 30km vào trung tâm xã Na Rì mới có nhà nghỉ. Phương án thứ hai ít được lựa chọn, chính vì thế, trước ngày hội, nhiều gia đình ở gần chợ đã quét dọn nhà cửa sạch sẽ, làm bún, bánh, mổ gà, lợn để đón khách phương xa về dự hội. Họ đón tiếp ân tình, cởi mở, không vụ lợi, không chụp giật. Tấm lòng mến khách, chân chất, thật thà từ nghìn đời nay của người Tày-Nùng nơi đây vẫn giữ được gần như nguyên vẹn. Họ quan niệm, càng nhiều khách đến nhà thì càng nhiều bạn bè, càng vui, làm ăn sẽ thuận lợi.
Chợ tình có truyền thuyết rất cảm động về tình yêu đôi lứa. Chuyện kể rằng, ngày xưa, ở thôn Pác Sen, có hai vợ chồng thương yêu nhau hết mực. Khi mùa vụ sắp tới, vợ chồng cùng nhau ra đồng, chồng thì cuốc ở cuối ruộng, vợ phát cỏ nơi đầu ruộng. Đến trưa, mặt trời đứng bóng, người chồng đã thấm mệt, gọi vợ về nghỉ thì chỉ nghe tiếng núi đồi vọng lại. Chạy mãi, tới đầu ruộng, người chồng chỉ thấy cán dao gẫy, cỏ cây nát, chứng tích của một cuộc vật lộn xô đẩy. Mãi sau, chàng mới hay người vợ của mình đã bị bọn xấu bắt đi, nàng đã chống trả, kêu cứu nhưng vì ruộng dài quá, khoảng cách giữa hai người quá xa nên chàng không nghe thấy để đến cứu vợ.
Biết chuyện, dân làng ai cũng tỏ lòng thương. Thửa ruộng của vợ chồng nhà nọ được gọi là ruộng dài (Nà Rì) đó cũng là tên của cả huyện Na Rì cũ, nay thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Ẩm thực và các món ăn ngon ở Thái Nguyên
Món ăn ngon ở Thái Nguyên
Canh gà nấu gừng
Gà ta chặt miếng, ướp với gừng đập dập, lá gừng non thái nhỏ, mẻ, một ít rượu trắng, muối, bột ngọt. Đổ thịt gà đã ướp vào chảo gang xào chín thì cho bát nước và ít nấm hương, đậy nắp đun sôi thêm vài phút là được.
Canh gà nấu gừng (Ảnh sưu tầm)
Bát canh gà thơm lừng, hương vị đặc biệt, dễ ăn và chế biến. Đây cũng là món ăn dân dã và thường được đãi khách của người Tày.
Cơm lam
Cơm lam là một trong những món ăn giản dị của đồng bào dân tộc thiểu số Định Hóa nhưng có sức hấp dẫn lạ lùng bởi sự giao hòa của nước của lửa và những ống nứa non.
Cơm lam nướng ăn với muối vừng, món ăn phổ biến của đồng bào vùng cao (Ảnh sưu tầm)
Cơm lam là một món ăn giản dị của người dân Định Hóa, giản dị bởi nó gắn với những con suối nơi đầu nguồn và nương lúa bên sườn đồi, những vạt rừng tre nứa xanh ngút của đất ATK một thủa nhưng khiến du khách khó quên nếu có dịp thưởng thức.
Muốn có cơm lam ngon, đầu tiên phải có loại nếp ngon, ấy là thứ nếp cái hoa vàng trồng trên nương, hàng năm thu hoạch vào khoảng tháng 9, tháng 10. Thứ nếp mười hạt như cả mười, tròn căng đem nhặt hết sạn, ngâm qua nước ấm. Dụng cụ để lam là ống nứa, hoặc ống tre non, còn tươi để khi lam, chỉ cháy được ở phần ngoài và nước ngọt của cây ngấm vào gạo. Loại nứa hoặc tre này mỗi cây chỉ chặt được từ ba đến bốn ống, mỗi ống dài độ 30 phân…
Xôi ngũ sắc
Xôi ngũ sắc của người Tày Định Hóa bao hàm cả một triết lý nhân sinh quan: 5 màu của xôi là tượng trưng cho ngũ hành. Màu vàng là màu của Thổ, màu xanh là màu của Mộc, đỏ là màu của Hỏa, trắng là màu của Kim, tím thẫm là màu của Thủy. Mọi vật chất trong vũ trụ đều do 5 hành đó tương sinh, tương khắc tạo nên, mà tồn tại và phát triển.
Xôi ngũ sắc (Ảnh sưu tầm)
Để có xôi ngon, thơm dẻo người làm nghề phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy trình từ khâu chọn lá nhuộm màu đến việc đồ xôi. Nguyên liệu để nấu xôi phải là gạo nếp Định Hóa, trong, hạt mẩy, tròn một loại nếp thơm ngon và nổi tiếng nhất vùng. Bốn loại lá rừng dùng để nhuộm các màu xanh – đỏ – tím – vàng được người dân lựa chọn kỹ lưỡng, lá không được quá non hay quá già. Sau đó rửa sạch nấu với nước lấy từ suối.
Khi đã có nước màu, gạo nếp được cho vào ngâm khoảng 10 tiếng rồi vớt để ráo nước. Gạo ráo nước sẽ được đồ trong chõ xôi truyền thống của đồng bào gọi là Mỏ Lửng – Tay Lung. Chõ xôi hình bầu dục bằng thân cây cọ hoặc gỗ thơm được gọt đẽo để thủng hai đầu, đầu trên có nắp đậy, đầu dưới lót bằng phên nứa, mỗi chõ xôi được hơn 1kg gạo.
Nham
Là đặc sản ẩm thực nổi tiếng của xã Điềm Thụy và thường được làm vào mùa trám chín (khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8 âm lịch) Món nham được làm từ 14 loại thực phẩm, gia vị dân dã như: trắm đen, cá cháy hoặc cá mè trắng, củ chuối tiêu non, vừng, lạc, thịt ba chỉ, khế chua, lá gừng, lá sung, lá nhội, lá đinh lăng, cùi dừa, tương, dấm thanh…
Một món nham hoàn chỉnh thường gồm rất nhiều nguyên liệu. Trong đó không thể thiếu quả trám đem ỏm tách hạt thái nhỏ. Nham thường có hai loại nham cá sống và nham cá nướng. Nham cá sống thì thái chỉ thịt cá, nham cá nướng thì cá được nướng trên than hoa. Trộn chúng lại cùng vừng, lạc, lá khế, lá nhội…là có ngay món nham đầy đủ hương vị dân dã.
Măng đắng Ngàn Me
Điều kiện thích hợp nên ở Thái Nguyên quanh năm luôn có măng để thưởng thức. Nhưng phổ biến nhất phải kể đến măng đắng Ngàn Me. Thứ măng vừa nhú lên khỏi mặt đất mang lại hương vị khó quên cho ai từng thưởng thức.
Măng đắng Ngàn Me một năm chỉ có bán trong 1 tháng (Ảnh sưu tầm)
Măng đắng Ngàn Me có vụ đắng giòn và ngon nhất là vào mùa xuân. Măng đắng có thể luộc chấm muối, măng đắng nấu ốc suối hoặc đem ngâm giấm đều tuyệt vời. Nếu không thích vị đắng của măng bạn có thể ngâm qua nước muối 1 tới 2 giờ hoặc chẻ đôi rồi đem luộc sơ nhé.
Măng nhồi thịt
Món măng nhồi thịt thơm ngon cũng rất dễ chế biến. Thịt nác vai lợn băm nhỏ trộn với nâm hương, mộc nhỉ, hành hoa, muối, bột ngọt, hạt tiêu nhồi vào những ống măng nứa đã luộc xong đem hấp khoảng 30′ là chín.
Măng nhồi thịt (Ảnh sưu tầm)
Rau rừng
Bồ khai là loại rau rừng mọc ven núi đá, món này có thể xào không hay xào với trứng gà, thịt băm, thịt bò…vẫn được coi là đặc sản thiết khách của Thái Nguyên. Người ta thường dùng phần ngọn và lá non rau bò khai để chế biến món ăn. Rau có mùi vị khai đặc trưng nên khi chế biến người ta thường vò lá cho át bớt mùi.
Rau rừng (Ảnh sưu tầm)
Tuy nhiên sự ngon ngọt của rau luôn khiến người ta thèm thuồng mà quên đi mùi vị khó ngửi này. Vùng rừng Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai đều có cây rau ngót rừng (có nơi gọi là rau sắng). Rau ngót rừng nấu canh có bị thơm mát, rất bùi.
Bánh tro
Bánh tro hay còn gọi là bánh gio, bánh nẳng, là thứ bánh dân dã mà bà con người Kinh, Tày, Sán Chay…thường làm. Gọi là bánh Tro vì nước để ngâm gạo làm bánh và nấu bánh đều được lấy phần nước trong, lắng từ nước tro (gio) của nhiều loại cây khác nhau.
Bánh gio thường ăn kèm với mật mía (Ảnh sưu tầm)
Gọi là bánh âm vì nó có đặc tính tư âm, bổ âm, do chứa toàn nguyên vật liệu có tính âm (toàn bộ là thực vật và khoáng canxi, kali…).
Bánh chưng Bờ Đậu
Bánh chưng Bờ Đậu được làm từ gạo nếp đặc sản của núi rừng Định Hóa một huyện ở miền núi trung du tỉnh Thái Nguyên, thứ gạo nếp dẻo và rất thơm. Gạo nếp được chọn hết sạn, những hạt đầu đen và hạt tẻ lẫn vào, sau đó vo sạch, ngâm trong nước vài tiếng để gạo nở, để ráo nước, trộn với một chút muối và chuẩn bị gói.
Bánh chưng Bờ Đậu là đặc sản mà các bạn không nên bỏ lỡ (Ảnh: luhanhvietnam.com.vn)
Lá dong để gói bánh là thứ lá nếp, dày, xanh mướt, bản rộng. Lá chặt từ rừng Na Rì, chợ Đồn về rửa sạch cả hai mặt, để ráo nước, dùng khăn sạch lau khô, tước bớt cuống lá, cắt bớt ngọn lá và phần cuống lá, xếp gọn lá bên cạnh chậu gạo. Lạt buộc bánh phải là thứ lạt chẻ bằng cây giang.
Đỗ xanh làm nhân bánh là thứ đỗ quê đều hạt, vỏ mỏng, lòng vàng. Đỗ được vỡ đôi, ngâm nước, đãi sạch vỏ trộn một ít muối. Thịt chọn gói bánh là loại thịt ba chỉ ngon từ lợn miền ngược thả rông chắc nịch, thái miếng to, ướp muối, hạt tiêu ngấm đều.
Nem chua Đại Từ
Không giống với các loại nem chua khác có thể bóc ra là ăn được ngay, nem chua Đại Từ cần có một thao tác nhỏ nữa là nướng bằng than củi hoặc lăn qua chảo mới có thể ăn được. Với thành phần gồm có: thịt nạc mông, tỏi, rượu, hạt tiêu, thính và lá ổi, mỗi chiếc nem được gói cẩn thận bằng lá chuối và có thể được đến vài ngày. Để có được những chiếc nem chất lượng, người ta chỉ dùng thịt ở 2 quả mông của con lợn. Thịt được rửa sạch và lọc kỹ, thái mỏng ngang thớ rồi trộn cùng tỏi băm nhuyễn, tiêu xay, rượu trắng và thính gạo rang thơm.
Nem chua Đại Từ (Ảnh: quehuongonline.vn)
Sau khi nguyên liệu để gói nem được hoàn tất, những chiếc nem sẽ được gói cẩn thận lại bằng lá chuối và lá ổi. Lớp lá trong cùng thường được dùng bằng lá ổi có vị bùi, chát thích hợp; lớp ngoài là lớp áo bằng lá chuối còn tươi, nem được gói vừa phải, không cần chặt quá và kín gió để chóng lên men và để được lâu. Dùng lá chuối gói nem để tạo dáng và có màu xanh tươi, bóng bẩy đẹp mắt. Nem để từ 3-4 ngày là ăn được. Khi ăn nem Đại Từ, người ta thường gói kèm với các loại lá sung, đinh lăng… Tùy theo sở thích, người ăn có thể chấm thêm với nước mắm chanh ớt pha tỏi hay tương ớt, tạo thêm vị thơm ngon của món nem này.
Cá nướng Pắc Ngòi
Đến hồ Ba Bể thưởng thức cá nướng Pác Ngòi sẽ thấy cá ở đây không tanh như cá sông, cá biển. Con cá khi chín lại có màu vàng sẫm, thịt ăn rất thơm lại có vị ngọt. Miếng cá còn vương vấn mùi thơm của than hoa mang cho du khách cảm giác gần gũi như những nồi cá kho ủ trấu của làng quê.
Cá nướng Pác Ngòi (Ảnh sưu tầm)
Muốn cảm nhận hết dư vị cá nướng, bạn có thể ngồi thuyền vừa thưởng ngoạn cái vẻ đẹp của sông nước Ba Bể, nhâm nhi vài xiên cá nướng. Còn gì tuyệt hơn khi có thêm chút vị cay cay của tương ớt và vị đắng nồng của vài chén rượu. Bữa ăn sẽ trở nên thật tuyệt vời đấy.
Món cá nướng làm cũng rất đơn giản nhưng lại khá mất thời gian. Vì con cá nhỏ nên mất rất lâu để làm sạch. Cá tươi sau khi đánh bắt và lựa những con khá đều nhau thì được làm sạch và rửa với nước rồi đồ cho chín tới. Sau đó người ta dùng nẹp tre để tạo thành một cái kẹp, mỗi kẹp khoảng chừng 8-10 con cá. Kẹp xong cá rồi đem phơi khô ngoài nắng, cá muốn ngon thì nên phơi tầm 3-4 nắng là được.
Lợn sữa quay
Lợn sau khi chọc tiết thì dùng nước nấu lá ổi để cạo sạch lông, mổ moi và làm sạch trong bụng rồi nhồi vào trọng bụng lợn các nguyên liệu như quả mắc mật, tai hồi, thảo quả, quế chỉ… rồi đem quay trên than hồng.
Hội thi lợn quay vùng cao (Ảnh sưu tầm)
Khi quay thì thường xuyên lấy khăn nhúng nước lau chú lợn để phần da lợn ở ngoài không bị cháy, khi lợn gần chín thì dùng que xăm thủng lợn để nước và mỡ chảy ra. Bỏ lợn ra khoảng 1 tiếng cho bớt nóng và để khi chặt thịt miếng thịt bày ra đĩa không bị nát. Đĩa thịt lợn quay vàng xộm thơm lừng ngon lành đến ứa nước miếng. Cắn miếng thịt quay có vị ngọt của thịt chín tới, vị thơm của lá mác mật, vị ngậy của thịt nướng, miếng thịt được tẩm ướp đậm đà.
Gà chạy bộ
Gà nướng (Ảnh sưu tầm)
Một đặc sản của các vùng đồi núi, gà được nuôi bằng thóc và thả rông cho nên thịt gà chắc, ngọt và thơm, đặc biệt da giòn ăn rất ngon. Những chú gà được nuôi ở các vùng đồi núi, do được thả rông nhiều nên thịt gà rất chắc, ngọt và thơm.
Xôi nếp nương
Lúa được trồng trên vùng núi cao vùng Ngân Sơn, Chợ Đồn, Na Rì, Bạch Thông… Cây lúa tại đây được trồng hoàn toàn tự nhiên, trên nương rẫy không có sự can thiệp của các loại phân hóa học, vì thế gạo nếp nương được đảm bảo có độ sạch nhất định.
Xôi nếp nương (Ảnh sưu tầm)
Cây lúa sinh trưởng và phát triển trên mảnh đất màu mỡ của núi rừng, cho ra hạt nếp to, hạt trong, hạt đục, khi nấu có mùi thơm và dẻo. Món ăn vô cùng phổ biến của người vùng cao, thường là món ăn kèm với các món thịt lợn, thịt gà nướng ở trên.
Mắm tép chua Ba Bể
Nếu qua đêm ở bản Pác Ngòi, được ăn bữa cơm dân tộc bên bếp lửa nhà sàn, bạn hãy thử một lần nếm hương vị của món tép hồ muối chua nổi tiếng. Đặc sản tép chua Ba Bể làm từ tép tươi và gạo nương, được dân làng chế biến theo bí quyết riêng để có hương vị thơm ngon đặc biệt, khác hẳn so với những nơi khác.
Mắm tép chưng thịt (Ảnh sưu tầm)
Người Tày nơi đây thường ăn tép muối chua cùng thịt chân giò hoặc ba chỉ luộc kèm các loại rau thơm như đinh lăng, chuối xanh, khế chua… Thưởng thức tép chua hồ Ba Bể giữa khung cảnh thanh bình của núi rừng, sông bể, du khách sẽ thấy ngon miệng hơn và cảm nhận rõ vị béo của thịt, cay từ tỏi, mùi thơm riềng cùng sự ngọt dìu dịu, chua thanh của tép nhưng lại rất đậm đà, riêng biệt.
Rau rừng
Nếu ai đã từng đến thăm mảnh đất vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, nổi tiếng với những địa danh thắng cảnh như Hồ Ba Bể, rừng nguyên sinh, với những điệu hát then, nghỉ ngơi một đêm bên bếp lửa nhà sàn và thưởng thức sản vật của núi rừng Thái Nguyên hẳn sẽ không thể quên được hương vị đặc trưng các món rau riêng được chế biến từ bàn tay khéo léo của người dân nơi đây.
Rau dớn, một trong các loại rau rừng ngon ở Bắc Kạn (Ảnh sưu tầm)
Cũng như một số tỉnh vùng Đông Bắc khác, người dân vùng cao Thái Nguyên cũng có những loại rau rừng rất ngon cùng với sự chế biến khéo léo luôn mang lại hương vị khó quên cho khách du lịch. Nếu có dịp ghé những bản du lịch cộng đồng của người dân Bắc Kạn bạn có thể dễ dàng thưởng thức các loại rau này như: rau dớn, rau bồ khai, rau ngót rừng…
Rượu men lá Bằng Phúc
Rượu men lá của người Bằng Phúc khi uống có hương vị rất hấp dẫn, ngọt mát, rất dịu, êm hơn bất kỳ loại rượu nào khác. Rượu dù uống say đến đâu thì vẫn cứ sảng khoái, nhẹ nhõm. Đó là một đặc điểm rất quý của rượu men lá. Đến Bằng Phúc, phải ngồi lại nhấp chén chè, thử chén rượu, ấy mới được coi là đến thăm. Điều làm nên sự khác biệt này chính là men rượu.
Men dùng để nấu rượu Bằng Phúc (Ảnh sưu tầm)
Theo chia sẻ của ông, men lá nấu rượu được làm từ lá thuốc bắc với bột gạo. Để có được men tốt, tạo nên hương vị đặc trưng của rượu thì bí quyết quan trọng nhất chính là lên rừng hái thuốc bắc về phơi khô để dùng dần.
Miến dong Na Rì
Miến dong Na Rì có hương vị đặc biệt là nhờ sử dụng nguyên liệu sạch, được chế biến theo quy trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để làm ra loại miến thơm ngon này, củ dong riềng được nghiền nát để lấy tinh bột, hòa tinh bột vào nước và lọc nhiều lần để loại bỏ sạn và tạp chất, giúp cho miến có màu trong.
Miến dong Na Rì (Ảnh sưu tầm)
Sau đó người ta quấy 1 phần bột dong, trộn với bột sống rồi đem đi tráng thành bánh. Bánh được đem đi phơi rồi đưa vào máy để cán thành sợi miến. Với quy trình tỉ mỉ, tuyệt đối không dùng hóa chất và được phơi trong môi trường trong lành giữa bạt ngàn đồi núi nên sợi miến dong Na Rì ngọt, dai, giòn, không có sạn và có hương thơm đặc trưng của bột dong.
Khâu nhục
Không chỉ ở Thái Nguyên, đây là món ăn khá quen thuộc ở các tỉnh vùng Đông Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang… Thịt lợn phải là thịt ba chỉ ngon, luộc sơ qua, dùng tăm tre chọc bì thật kĩ, tẩm ướp gia vị rồi đem quay, vưa quay vừa quết mật ong cho vàng bì. khoai cũng phải rán vàng,mọi thứ được xếp vào bát, cứ một miếng khoai, một miếng thịt cho nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ…đã xào lên trên, hấp cách thuỷ khoảng 5 tiếng đồng hồ.
Khau Nhục là món ăn du nhập theo người Hoa vào Việt Nam (Ảnh sưu tầm)
Khâu nhục là tiếng hoa đánh vần lại chữ viết tiếng Việt, phát âm tiếng Hoa là khâu nhục. “Khâu” có nghĩa- hấp đến mềm gục, “Nhục” có nghĩa- thịt, nếu dịch đúng nghĩa là thịt gục, hoặc thịt hấp gục. Tùy từng địa phương, món ăn này còn có các tên gọi khác như: “khau nhục”, “khổ nhục”, “nằm khau”. Ngoài ra, tên gọi của chúng còn được bắt nguồn từ chính cách thức xếp trên đĩa và hình dáng giống như một mỏm đồi nhỏ, đang vươn lên, nên người dân tộc Nùng gọi là “khâu” tức đồi.
Pẻng phạ
Nhìn bề ngoài bánh không có gì nổi bật, những viên bánh tròn tròn chỉ nhỉnh hơn quả nhãn lồng đôi chút, lớp bột trắng bên ngoài dù có cố gắng làm duyên đến mấy cũng không phủ kín màu hơi nâu nâu của bánh nằm ẩn bên trong. Tuy mộc và thô như vậy, song không phải ngẫu nhiên mà người Tày chọn đó là một trong những món ăn truyền thống của dân tộc mình để dâng lên trời đất. Chỉ một chiếc bánh nhỏ xíu, song hội tụ nhiều nguyên liệu, hương vị đặc trưng của người dân nơi đây với vị cay nồng của rượu, vị ngọt của đường, vị chát rất thơm của nước chè mạn, vị béo bùi của bột nếp…
Pẻng Phạ, món Bánh Trời của người Tày ở Ba Bể (Ảnh sưu tầm)
Bánh pẻng phạ chế biến không cầu kỳ nhưng mùi vị thơm ngon thích hợp với mọi lứa tuổi từ người già cả răng yếu cho tới tụi trẻ con ưa thích quà vặt, do vậy hầu như nhà nào cũng làm món bánh này trong những dịp ăn mừng. Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp. Mỗi túi bánh nếu bảo quản tốt có thể để hơn một tháng mà vẫn giữ được vị thơm, giòn của bột, của chè nên nhân lúc rảnh rỗi hoặc nhà chuẩn bị có việc người ta làm trước bánh rồi cất trong những túi kín để dùng dần hoặc làm quà cho người phương xa.
Lạp xường
Lạp xưởng (Ảnh sưu tầm)
Lạp sườn được làm bằng tay của người Thái Nguyên có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mắc mật, thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Nhấp thêm chút rượu nữa thì càng khoái khẩu.
Lạp sườn được làm từ thịt lợn bản nên thịt thơm và chắc. Điểm độc đáo của lạp sườn Bắc Kạn là được tẩm ướp bằng gừng đá, một loại gừng chỉ mọc trên đá của người dân tộc nên có mùi thơm rất đặc biệt, không giống gia vị nào của miền xuôi.
Bánh ngải người Tày
Bánh ngải là món bánh đặc trưng của người Tày (Ảnh sưu tầm)
Bánh trứng kiến
Bánh trứng kiến là một trong những món bánh độc đáo của người Tày vùng núi Đông Bắc nước ta, mạn Thái Nguyên, Cao Bằng. Nguyên liệu chính để làm nên món bánh này chính là trứng kiến. Loại bánh này thường chỉ được làm vào khoảng thời gian nhất định cuối tháng 4 và tháng 5 hằng năm bởi đây là thời gian sinh trưởng mạnh nhất của loài kiến đen rừng.
Bánh trứng kiến Thái Nguyên (Ảnh sưu tầm)
Bánh trứng kiến có thể ăn nóng hay nguội tùy ý, với loại bánh này thì ăn bất cứ lúc nào cũng có vị ngon riêng. Người ăn luôn cảm nhận được độ dẻo của gạo nếp, vị mềm của lá vả, và đặc biệt là vị béo béo ngậy ngậy của nhân bánh được làm từ trứng kiến.
Măng vầu
Măng vầu có thể được chế biến thành rất nhiều món ngon (Ảnh sưu tầm)
Cứ đến đầu tháng Chạp âm lịch, khi cơn mưa phùn bắt đầu đổ xuống, người dân trên khắp các bản làng ở Thái Nguyên lại gọi nhau lên rừng đào cái măng non, ríu ran như đi hội. Măng hái đầu mùa bao giờ cũng ngon hơn cuối mùa, từ hương vị đến độ giòn. Vì thế, người ta thường vào rừng tìm măng khi mùa xuân vừa tới. Đầu xuân, măng nhiều, ăn không hết bà con mang ra chợ bán.
Rừng Thái Nguyên có rất nhiều loại măng như: Măng tre, măng trúc, măng nứa, măng mai,… Nhưng nếu nói là đặc sản phải kể đến thứ “măng vầu” hay còn gọi là “măng đắng”. Cây măng vầu có sức sinh sôi thật kỳ diệu, cứ đào hết đợt này măng lại lên đợt khác cứ tựa hồ như sấm gọi. Rừng vầu cứ khai thác hết năm này đến năm khác.
Măng ngâm ớt
Măng ngâm ớt đặc biệt ở chỗ người làm ngâm măng cùng với quả mắc mật, đây là loại quả chỉ mọc trên vùng núi đá phía bắc.
Măng ngâm ớt ở Đèo Giàng (Ảnh sưu tầm)
Măng thái nhỏ, ớt và mắc mật để cả quả, rửa sạch để ráo. Tất cả được ngâm chung với nước muối có độ đậm vừa. Màu trắng của măng xen lẫn với màu đỏ tươi của ớt và màu xanh nâu của mắc mật thơm nồng là món quà thắm đượm hương vị quê nhà mà người dân Thái Nguyên dành làm quà cho người thân và du khách đến thăm quê mình. Măng ngâm ớt thường được dùng cho vào nước chấm và hay ăn kèm với những món ăn chóng ngấy như chân giò hầm, khau nhục…
Gạo bao thai Chợ Đồn
Giống Bao Thai có đặc điểm là giống phản ứng với ánh sáng ngày ngắn nên chỉ được gieo cấy ở vụ mùa. Đây là giống có chất lượng gạo tốt, dễ trồng, yêu cầu thâm canh không cao, khả năng chống chịu sâu bệnh hại rất khá, do đó phù hợp với đa số người sản xuất.
Gạo bao thai Chợ Đồn (Ảnh sưu tầm)
Đặc biệt là ở xã Chợ Đồn nhờ những đặc điểm về khí hậu, đất đai riêng biệt, rất phù hợp cho giống lúa Bao Thai phát triển.
Xôi Đăm Đeng
Xôi Đăm Đeng (Ảnh sưu tầm)
Xôi đăm đeng tiếng Tày có nghĩa là xôi đỏ đen. Đây là món xôi nhiều màu sắc đỏ, xanh, đen, tím, trắng, vàng. Xôi đăm đeng được nấu từ gạo nếp cái sát từ những bó thóc nếp treo trên gác bếp nhiều tháng trước đó. Ở đây, khi thu hoạch lúa nếp, bà con không tuốt, mà để nguyên bông lúa nếp, đem bó lại treo lên gác bếp, khi chuẩn bị làm xôi mới xát thành gạo.
Đăm đeng có mùi thơm đặc trưng, không lẫn với bất cứ xôi nào. Hạt xôi bóng mượt, khi nguội se lại nhưng vẫn mềm dẻo và thơm, đặc biệt màu sắc rất bắt mắt. Đăm đeng thường được ăn với muối lạc giã nhỏ, giống như món cơm lam. Miếng xôi dẻo thơm quện với lạc vừng bùi, béo ngon cùng hương vị của lá rừng vô cùng hấp dẫn.
Bánh Coóc Mò
Coóc mò cũng là một loại bánh được bà con các dân tộc Bắc Kạn hay làm hơn cả. Mới nhìn qua nhiều người nhầm là bánh gio vì hình thức bánh coóc mò cũng giống như vậy. Bánh cũng được gói theo hình chóp nhưng lá gói bánh lại là lá chuối.
Bánh coóc mò – bánh gio sừng bò (Ảnh sưu tầm)
Để có được những chiếc coóc mò vừa dẻo, thơm lại đẹp mắt, ngoài việc chọn nguyên liệu, lá gói thì khâu làm bánh đòi hỏi phải một sự tinh tế, khéo léo. Bánh được làm từ loại gạo nếp thơm, hạt nào hạt nấy căng mẩy, đều tăm tắp. Nước làm bánh cũng phải là thứ nước suối, trong và ngọt. Những chiếc bánh cooc mò sau khi luộc có màu xanh nhạt, bóc lớp lá ra nhận thấy ngay vì thơm của nếp quyện với mùi lá vô cùng hấp dẫn. Cắn miếng bánh cooc mò thấy ngay vị dẻo thơm gạo nếp, vị ngậy của lạc nhân đỏ. Tuy bánh không có nhân nhưng càng nhai càng cảm nhận được vị thơm, béo, dẻo – đậm đà hương vị đồng quê. Bánh có thể ăn không hoặc chấm mật mía cũng rất ngon.
Mứt mận
Món mứt mận ở Thái Nguyên được người dân coi là đặc sản vì nó có những hương vị đặc trưng riêng và rất hấp dẫn. Hầu như người dân Thái Nguyên đi đâu xa đều mang món mứt mận để làm quà biếu và giới thiệu sản phẩm của quê hương mình.
Mứt mận (Ảnh sưu tầm)
Quả mận có ở rất nhiều địa phương nhưng chỉ có Thái Nguyên với giống mận vàng quả to và được những bàn tay khéo léo của các cô gái chế biến mới tạo nên món đặc sản không nơi nào có. Nhìn quả mứt mận nâu sậm, trong veo, cắn vào thấy dai và có vị ngọt hấp dẫn, không ai có thế nghĩ rằng nó được làm ra từ những quả mận vừa chua vừa chát mà người ăn chua giỏi nhất cũng không thể ăn quá ba quả.
Quýt Quang Thuận
Khi tiết trời se lạnh của mùa đông đến cũng là lúc những quả quýt Quang Thuận, xã Bạch Thông, bắt đầu mang vị ngọt. Chỉ cần thưởng thức một lần các bạn sẽ nhớ mãi hương vị ngọt thơm tuyệt vời của nó.
Quý Quang Thuận (Ảnh sưu tầm)
Khi xưa, thứ trái cây này ở xã Bạch Thông chỉ có trên núi cao hoặc mọc tự nhiên trong các cánh rừng già, theo tay nải của bà con leo lên những ngọn núi cao, vừa xoè lá che chắn nắng mưa, vừa cho quả thơm ngọt trong những ngày lễ chạp cuối năm. Rồi tiếng lành đồn xa xuất phát từ chính bản thân hương vị tuyệt vời khiến những người một lần được thưởng thức quýt Quang Thuận đều không quên được. Và thứ trái cây đặc sản núi rừng ấy đã nhanh chóng được nhiều người biết đến.
Tôm, cá chua
Từ lâu, cư dân Tày đã biết chế biến món tôm chua, cá chua. Trước đây, khi tôm, cá còn nhiều, việc đánh bắt dễ dàng nên ngoài việc làm đồ ăn hàng ngày như luộc, rán, nướng… người dân đã biết chế biến ra món ăn có hương vị rất riêng đó là món tôm chua, cá chua. Ngày nay, nghề làm tôm chua, cá chua đang có xu hướng phát triển ở vùng hồ Ba Bể. Dọc theo các triền sông, suối người dân lấy tôm, cá về chế biến. Phải là tôm sông, cá sông mới cho hương vị đậm đà, riêng biệt với các vùng quê khác. Khi đánh bắt được các mẻ tôm sông, cá sông, người dân lựa chọn những con còn nguyên vẹn, đều nhau, cá thì cắt khúc rồi làm theo quy trình trên và ủ kín.
Tôm chua (Ảnh sưu tầm)
Sau một thời gian, khi tôm cá đã ngấm đủ gia vị, lên men, bỏ tôm chua, cá chua từ hũ ra, chắc hẳn không ai quên được hương vị đậm đà, mùi thơm của giềng, ngọt mềm chua dìu dịu, ăn cùng với cơm nấu bằng gạo nương thì người khó tính nhất cũng phải gật gù và thốt lên ăn không biết chán. Thường thì, người ta chưng tôm chua, cá chua lên với thịt băm và trộn thêm giềng giã nhỏ chưng lên nhưng nên nhớ rằng nếu cho nhiều thịt băm và giềng sẽ mất đi hương vị riêng của tôm chua, cá chua vùng hồ Ba Bể.
Bánh Khẩu Thuy
Bước sang tháng chạp, bà con người Tày bắt đầu chuẩn bị nguyên liệu để làm Khẩu Thuy. Để làm được bánh ngon phải cần nhiều nguyên liệu, nhiều công đoạn và khá cầu kỳ. Họ lấy bèo tây đun lên lấy nước, lại lấy cây vông hoa đỏ đốt lên lấy tro. Dùng nước bèo tây và nước tro để ngâm gạo nếp. Ngâm cho gạo nở to rồi đem lên đồ. Một thứ không thể thiếu được khi làm Khẩu Thuy là khoai sọ. Khoai sọ cũng đồ lên cùng với gạo nếp, cho thêm một chút rượu vào. Bèo tây, tro vông để làm bánh nở được to, khoai sọ để bánh lên màu, rượu để bánh có vị thơm.
Bánh Khẩu Thuy (Ảnh sưu tầm)
Sau khi đồ chín, cho tất cả vào giã. Giã Khẩu Thuy cũng như giã bánh dày. Giã đến khi cối bánh lên bọt trắng, giơ chày quá đầu người không thấy bột bánh dính đầu chày nữa thì mới được. Để giã được một cối bánh không phải đơn giản. Vậy nên, các cụ ngày xưa muốn thử sức con rể thì việc đầu tiên là cho giã một cối bánh dày. Giã càng nhanh, càng nhuyễn thì càng “đạt yêu cầu”. Giã bánh xong, đổ ra một cái mẹt to và cán cho thật mỏng. Chờ cho bánh nguội bớt, siu mặt thì đem cắt từng miếng hình quả trám hoặc hình vuông. Đem phơi khô tất cả để chờ đến tết hoặc ngày hội mới đem rang phồng lên. Rang Khẩu Thuy cho phồng hết cỡ để khi ăn không bị lợn cợn những miếng bánh dẻo chưa phồng hết cũng đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Cho bánh vào chảo gang, lúc đầu cho lửa thật nhỏ để miếng bánh nóng, sau tăng lửa dần để bánh phồng đều.
Công đoạn cuối cùng để hoàn thành món bánh này là tẩm đường cho bánh. Đun sôi mật mía, trút bánh đã rán phồng vào đảo đều, sau đó, đổ ra mẹt đã tra sẵn một chút bột gạo rang. Để giữ được lâu, người ta cho vào túi nilông buộc kín sẽ khiến bánh không bị ỉu mà vẫn giữ được hương vị.
Chè shan tuyết Bằng Phúc
Cây chè Shan tuyết là một trong những đặc sản của tỉnh Thái Nguyên, phân bố chủ yếu tại xã Đồng Phúc. Được trồng trên những triền đồi ở độ cao 1.200m so với mực nước biển, khí hậu ôn hòa, quanh năm mát mẻ đã tạo nên hương vị, chất lượng đặc trưng riêng của chè Shan tuyết Bằng Phúc.
Chè Shan tuyết (Ảnh sưu tầm)
Không giống với những loại chè khác, búp chè Shan tuyết to, có phủ lớp lông tơ trắng trông như những bông hoa tuyết. Khi sao khô, búp chè có màu trắng bạc, pha nước sóng sánh vàng, đậm đà vị thơm đọng nơi đầu lưỡi. Chè Shan tuyết chất lượng tốt, có hương vị đặc biệt nên được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.
Đặc sản Thái Nguyên
Chè Tân Cương
Chè Thái Nguyên (Trà Thái Nguyên) ngon là loại chè có búp chè phải khô, cong, lành và ít bị gãy, có vẻ ngoài đẹp mắt. Đặc biệt, chè Thái Nguyên ngon, chuẩn có màu xanh tự nhiên, có số lượng cánh chè dài ít và có nhiều cánh chè ngắn, bởi cánh chè ngắn là những búp chè ngon. Còn đối với chè không ngon thường có màu vàng hoặc nâu xỉn và chè hay bị vụn, gãy.
Đặc sản chè Tân Cương, Thái Nguyên (Ảnh: pasgo.vn)
Chè đặc sản Thái Nguyên ngon khi uống có mùi hương thơm cốm nhè nhẹ lan tỏa và có vị chát nhẹ và vị ngọt động lại cuống họng. Ở Thái Nguyên có rất nhiều huyện trồng chè mỗi nơi sẽ cho hương vị trà búp khác nhau. Nhưng để cho hương vị trà ngon thì vẫn phải kể đến trà búp Tân Cương. Chè búp Tân Cương cho màu nước xanh vàng nhẹ, vị chát vừa phải và vị ngọt sâu đặc trưng cùng hương cốm rất tự nhiên.
Gạo bao thai Định Hóa
Có thể nói, từ nhiều đời nay, bà con nông dân trên mảnh đất ATK cách mạng đã gắn bó mật thiết với cây lúa bao thai lùn. Nhờ những đặc điểm về khí hậu và chất đất riêng rất phù hợp với giống lúa “bao thai lùn”, sản phẩm gạo Bao thai Định Hóa đã trở thành một loại đặc sản mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vùng đất chiến khu xưa. Các sản phẩm được chế biến từ loại gạo này (như mì sợi, bánh đa, bánh phở, bánh cuốn…) cũng có những hương vị riêng rất đặc biệt.
Gạo bao thai (Ảnh sưu tầm)
Miến Việt Cường
Không biết nghề làm miến có ở xóm Việt Cường, xã Đồng Hỷ từ bao giờ, nhưng sản phẩm miến Việt Cường đã trở thành thương hiệu không chỉ được ưa chuộng trên thị trường Thái Nguyên mà còn theo chân các lái thương lên miền ngược, xuống miền xuôi…
Người Việt Cường cũng làm miến như nhiều vùng khác nhưng sợi miến nơi đây thường đậm đà và dai, nấu lên để lâu cũng không nát. Chính đặc điểm riêng biệt đó khiến miến dong Việt Cường trở thành đặc sản của Thái Nguyên, được du khách lựa chọn làm quà mỗi lần đến mảnh đất này.
Tương nếp Úc Kỳ
Nghề làm tương ở xã Úc Kỳ cũ (nay thuộc xã Phú Bình) không rõ chính xác có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu, nhà nào cũng biết làm tương và đều có ít nhất 1 chum tương để ăn trong năm và làm quà biếu khách đến chơi. Theo thời gian, nghề làm tương nếp đã trở thành nghề truyền thống của người dân địa phương và là thứ ẩm thực đặc sản đang dần vươn xa ra các thị trường trong, ngoài tỉnh.
Tương Úc Kỳ ngon nhất khi làm từ nếp Thầu Dầu (Ảnh sưu tầm)
Chum tương được làm theo đúng công thức ấy khi mở ra có màu vàng sậm sóng sánh, tương nguyễn đặc như mật, đậm mùi thơm của nếp và đỗ tương, khi ăn để lại hậu vị ngọt. Nước tương này có thể sử dụng làm gia vị chấm trực tiếp cho nhiều món ăn khác nhau hoặc dùng để chế biến các món kho, hấp đều rất hấp dẫn. Từ lâu, tương đã là một loại gia vị quen thuộc trong bữa cơm hàng ngày của người dân Phú Bình nói riêng và nhiều gia đình tại các tỉnh phía Bắc nói chung.
Một số lịch trình phượt Thái Nguyên
Hà Nội – Hồ Núi Cốc – Tam Đảo
Lịch trình này khoảng hơn 200km, các bạn có thể kết hợp đi trong mấy ngày cuối tuần từ thứ 6 đến chủ nhật.
Ngày 1: Hà Nội – Hồ Núi Cốc
Từ Hà Nội các bạn đi theo cầu Nhật Tân, hết cầu rẽ sang QL3 rồi từ đó lên thẳng Tp Thái Nguyên cũ, tiếp đó đi lên hồ Núi Cốc. Chặng này chỉ khoảng 90km, đi khoảng từ 2-3 tiếng nên các bạn có thể kết hợp đi từ chiều thứ 6, đường khá đep nhưng đừng đi muộn quá là được. Tối ngủ ở Hồ Núi Cốc.
Ngày 2: Hồ Núi Cốc – Tam Đảo
– Sáng dậy hãy cứ thoải mái dạo chơi ở Hồ Núi Cốc.
– Thuê thuyền đi trên hồ, ghé thăm các đảo.
– Trưa ăn trưa tại Hồ Núi Cốc, trả phòng rồi bắt đầu khởi hành sang Tam Đảo, khám phá du lịch Tam Đảo
– Các bạn đi theo hướng QL 37 (đi Tuyên Quang) rồi đến QL 2C thì quay ngược lại Phú Thọ để lên Tam Đảo.
– Dạo chơi Tam Đảo, tối nghỉ ngơi ở Tam Đảo. Nếu đi vào cuối tuần hoặc dịp lễ nhớ đặt phòng khách sạn trước ở Tam Đảo, đặt sớm thì có giá tốt và đỡ bị chặt chém.
Ngày 3: Tam Đảo – Hà Nội
– Sáng dậy sớm làm cốc cafe trong cái tiết trời mát lạnh của Tam Đảo. Lên Quán Gió để có view đẹp, nhớ lên sớm kiếm chỗ nhé, trên này lúc nào cũng đông nghẹt người.
– Đi tham quan các cảnh đẹp Tam Đảo như: Cổng Trời, nhà thờ đá, Thác Bạc, VQG Tam Đảo, quảng trường, hoặc leo tháp truyền hình nếu có thể sắp xếp được thời gian.
– Trưa làm ít đồ nướng Tam Đảo (gà nướng, trứng nướng v…v..)
– Trả phòng rồi thong thả về Hà Nội, các bạn đi sớm cho thoải mái và đỡ bị sương mù. Trên đường về Hà Nội nếu còn thời gian các bạn có thể ghé thăm Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, chùa Tây Thiên. Lưu ý trên đường đi nhớ đi đùng làn đường và xi nhan ở các chỗ rẽ nhé.
Hà Nội – ATK Định Hóa – Tân Trào – Suối khoáng Mỹ Lâm – Hà Nội
Lịch trình này dành cho các bạn thích khám phá các di tích lịch sử cách mạng, an toàn khu và cũng khá ngắn có thể đi trong mấy ngày cuối tuần. Với lịch trình này các bạn cũng có thể thay đổi suối khoáng Mỹ Lâm thành Hồ Núi Cốc nếu muốn.
Ngày 1: Hà Nội – ATK Định Hóa – Tân Trào – Suối khoáng Mỹ Lâm
Ngày đầu tiên xuất phát từ Hà Nội đi ATK Định Hóa, tiếp đó các bạn đi tiếp sang khu di tích Tân Trào (thuộc Tuyên Quang nhưng cũng ở không xa lắm).
Sau khi dành thời gian tìm hiểu hết 2 nơi này, các bạn có thể chạy về Tp Tuyên Quang cũ rồi ghé suối khoáng Mỹ Lâm nghỉ ngơi, chơi bời. Tối ngủ tại đây.
Ngày 2: Tuyên Quang Hà Nội
Ngày này, các bạn nên kết hợp với các lịch trình du lịch Tuyên Quang để tạo thêm các cung mới cho mình, nếu không các bạn chạy ngược Tuyên Quang về Hà Nội.
Hà Nội – Thái Nguyên – Ba Bể – Cao Bằng – Thác Bản Giốc – Mẫu Sơn – Hà Nội
Ngày 1: Hà Nội – Thái Nguyên – Hồ Núi Cốc
Ngày này các bạn khởi hành từ Hà Nội đi Thái Nguyên, có rất nhiều các địa điểm du lịch ở Thái Nguyên (mặc dù không nằm gần nhau lắm) mà các bạn nên kết hợp để khám phá như: Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, hang Phượng Hoàng – suối Mỏ Gà, suối Cửa Tử, khu di tích ATK. Khá nhiều nên không thể đi hết được, các bạn hãy lựa chọn điểm nào thích nhất để đi nhé. Trong trường hợp muốn đi nhiều hơn, các bạn tự điều chỉnh thời gian của các ngày sau lùi lại một chút.
Tối các bạn quay trở về Hồ Núi Cốc, nghỉ ngơi ở đây.
Ngày 2 : Thái Nguyên – Ba Bể (150km)
– Sáng dậy cứ thong thả nghỉ ngơi, thuê thuyền đi chơi hồ Núi Cốc rồi sau đó mới khởi hành đi Ba Bể. Khoảng cách 150km thì chỉ mất khoảng 3 tiếng là có mặt ở Ba Bể. Chiều đi chơi các địa điểm đẹp ở Ba Bể, đi thuyền trên hồ, thăm Đảo Bà Góa, Ao Tiên , thác Đầu Đẳng …
– Tối nghỉ ở Ba Bể, nếu thích có thể vào các bản người Tày ở theo kiểu homestay.
Ngày 3 : Ba Bể – Cao Bằng – Thác Bản Giốc (200km)
– Từ Ba Bể khởi hành đi Thác Bản Giốc theo hướng Quốc lộ 3.
– Chơi ở Thác Bản Giốc, Động Ngườm Ngao, một số mốc biên giới ở khu vực này. Có thể kết hợp khám phá các địa điểm du lịch ở Cao Bằng.
– Tối ngủ ở Trùng Khánh.
Ngày 4 : Trùng Khánh – Lạng Sơn – Mẫu Sơn (200km)
– Từ Trùng Khánh quay ngược về Tp Cao Bằng cũ.
– Đi theo hướng Đông Khê – Thất Khê sang Lạng Sơn. Trên đường này có một số địa điểm du lịch Cao Bằng các bạn có thể tranh thủ khám phá.
– Từ Lạng Sơn đi tiếp lên Mẫu Sơn để nghỉ ngơi.
– Tối ngủ Mẫu Sơn.
Ngày 5 : Mẫu Sơn – Lạng Sơn – Hà Nội (220km)
– Sáng đi tham quan một vài điểm ở Mẫu Sơn.
– Khám phá Lạng Sơn, ở đây có rất nhiều đặc sản Lạng Sơn ngon mà bạn nên thử.
– Chạy từ Lạng Sơn về Hà Nội, kết thúc hành trình.
Hà Nội – Ba Bể – Na Hang
Ngày 1 : Hà Nội – Hồ Ba Bể (220km)
– Khởi hành từ Hà Nội đi Hồ Ba Bể.
– Chơi trọn vẹn 1 ngày ở Ba Bể.
Ngày 2 : Hồ Ba Bể – Thác Đầu Đẳng – Hồ thủy điện Na Hang (220km)
– Từ Ba Bể thuê thuyền (2 lần thuyền, lần thứ nhất đi từ Ba Bể qua Thác Đầu Đẳng rồi từ đó di chuyển bằng xe máy qua bến thuyền tiếp theo đi du lịch Na Hang.
– Mất khoảng 5 tiếng cho 2 lần đi thuyền này.
– Tiếp tục từ Na Hang về Tp Tuyên Quang cũ nghỉ ngơi
Ngày 3 : Tuyên Quang – Hà Nội (155km)
– Ngày này chỉ di chuyển từ Tuyên Quang về Hà Nội (nên đi theo QL 2C sẽ đỡ đông và nhanh hơn).
Hà Nội – Tuyên Quang – Bảo Lạc – Nguyên Bình – Ba Bể
Lịch trình này các bạn chủ yếu đi du lịch Hà Giang cũ nhưng kết hợp đi thêm một phần Cao Bằng là khu vực Nguyên Bình, Pia Oắc rồi đi qua Ba Bể về Hà Nội. Lịch trình này chạy xe máy hoàn toàn và hơi dài, các bạn cân nhắc khi chạy.
Ngày 1: Hà Nội – Tuyên Quang – Quản Bạ
Ngày này các bạn chạy theo hướng Quốc lộ 2 đi Vĩnh Phúc, Tuyên Quang rồi lên tới TP Hà Giang cũ. Từ TP Hà Giang cũ các bạn di chuyển tiếp rồi dừng lại tại Quản Bạ, chọn một số nhà nghỉ ở xã Quản Bạ rồi nghỉ lại.
Ngày 2: Quản Bạ – Yên Minh – Đồng Văn
Các bạn xem thêm các địa điểm du lịch Tuyên Quang để biết những địa điểm nào nên dừng lại chơi trên cung đường này.
Ngày 3: Đồng Văn – Mã Pì Lèng – Mèo Vạc – Bảo Lạc – Nguyên Bình – Ba Bể
Ngày này các bạn sẽ chạy xuyên 3 tỉnh là Tuyên Quang – Cao Bằng – Thái Nguyên. Tổng quãng đường vào khoảng 270km. Sẽ đi qua đèo Mã Pì Lèng, một trong tứ đại đỉnh đèo miền Bắc. Tiếp đến các bạn sẽ đi sang Bảo Lạc, Bảo Lâm rồi về Nguyên Bình của Cao Bằng. Trên đường đi sẽ qua khu vực Pia Oắc, nhớ ghé một vài biệt thự bỏ hoang được xây dựng từ thời Pháp nhé. Tối các bạn sẽ nghỉ ngơi ở Ba Bể.
Ngày 4: Ba Bể – Hà Nội
Các bạn có thể dành khoảng nửa ngày để khám phá du lịch Ba Bể, sau đó từ Ba Bể các bạn đi ngược theo Quốc lộ 3 về Hà Nội.
Xem thêm: Kinh nghiệm đi phượt Hồ Núi Cốc
Xem thêm: Kinh nghiệm trekking suối Cửa Tử chi tiết nhất
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Ba Bể




























































































































Discussion about this post