Nằm ở trung tâm vùng núi phía Bắc, Tuyên Quang không chỉ là địa danh nổi tiếng với phong cảnh hữu tình mà còn là cái nôi cách mạng của dân tộc. Bên cạnh đó, đây còn là nơi giao lưu văn hóa của các dân tộc miền núi Tây Bắc, với nhiều di sản, giá trị trị văn hóa, giá trị tinh thần vô cùng quý báu được gìn giữ và phát triển cho tới nay. Hãy cùng RuudNguyen.com giúp bạn khám phá các địa điểm du lịch ở Tuyên Quang nhé.
Tỉnh Tuyên Quang là một trong những tỉnh nổi bật với truyền thống cách mạng, nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá mang đậm sắc thái riêng biệt của các dân tộc vùng cao miền Bắc.
Trên lòng hồ thuỷ điện Na Hang (Ảnh: Nguyễn Tiệp Hà Giang)
Lịch sử hình thành Tuyên Quang
Tỉnh có phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Bắc Kạn và Thái Nguyên, phía Nam giáp Vĩnh Phúc, phía Tây-Nam giáp Phú Thọ, phía Tây giáp Yên Bái. Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu vực sông Lô, sông Gâm chảy qua tỉnh theo hướng Bắc-Nam và nhập vào sông Lô ở phía Tây Bắc huyện Yên Sơn chỗ giáp ranh giữa ba xã Phúc Ninh, Thắng Quân và Tân Long.
Một góc bình yên Tuyên Quang (Ảnh: RuudNguyen.com)
Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, Tuyên Quang là Thủ đô Khu giải phóng, trung tâm lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ đã ở và làm việc, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 01-10-1991, hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang chính thức chia tách, kinh tế – xã hội của tỉnh có nhiều bước phát triển quan trọng, đời sống vật chất tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Nên du lịch Tuyên Quang vào thời gian nào?
Khí hậu ở Tuyên Quang được chia thành hai mùa: Mùa đông với đặc trưng lạnh và khô hạn. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 8. Những cơn mưa lớn thường gây lũ với nhiều hiện tượng mưa đá và gió lốc.
Các bạn nên tới vào dịp Trung thu sẽ được hòa mình cùng với lễ hội Thành Tuyên lung linh sắc màu hoặc đi vào mùa xuân để tham gia nhiều lễ hội đặc sắc, đậm đà văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Tuyên Quang.
Hướng dẫn đi tới Tuyên Quang
Phương tiện công cộng
Cách Hà Nội khoảng 150km và được nối với thủ đô bằng tuyến quốc lộ 2 nên việc di chuyển tới Tuyên Quang khá dễ dàng. Từ bến xe Mỹ Đình hàng ngày luôn có các tuyến xe đi Tuyên Quang chạy liên tục, ngoài ra có thể đi tới Tuyên Quang bằng các tuyến xe đi Hà Giang chạy buổi tối.
Phương tiện cá nhân
Nếu sử dụng phương tiện cá nhân, từ Hà Nội các bạn đi theo đường Phạm Văn Đồng lên tới ngã 3 Nội Bài – Phúc Yên, rẽ theo hướng Quốc lộ 2 đi Phúc Yên, Vĩnh Yên rồi đi thẳng theo trục đường quốc lộ 2 qua Phú Thọ, Tuyên Quang. Hoặc đi theo trục QL 2C đi qua Sơn Dương rồi vào TP Tuyên Quang.
Khách sạn nhà nghỉ tại Tuyên Quang
Mặc dù du lịch Tuyên Quang so với một số địa phương kế cận chưa thực sự được đầu tư phát triển nhiều nhưng các dịch vụ lưu trú khách sạn, nhà nghỉ đều đủ sức đáp ứng nhu cầu của khách du lịch đến với tỉnh. Thuận tiện nhất cho việc tham quan là thuê phòng ở các khách sạn, nhà nghỉ trên đường số 2 (tuyến đường chính của thành phố Tuyên Quang)
Homestay ở Tuyên Quang
Thay vì chọn những nhà nghỉ hoành tráng hay khách sạn cao cấp, hiện nay khách du lịch đang có xu hướng muốn ở ngay tại nhà người dân địa phương để tìm hiểu văn hóa, cuộc sống của đồng bào.
Homestay Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Xu hướng này đã và đang tạo điều kiện cho dịch vụ kinh doanh homestay ở tỉnh Tuyên Quang từng bước phát triển.
Các địa điểm du lịch ở Tuyên Quang
Một số cái tên nổi bật mà nhất định khi có dịp bạn phải ghé qua như khu di tích Tân Trào, Kim Bình, Làng Ngòi, Đá Bàn hay khu bảo tàng, thành nhà Mạc tỉnh Tuyên Quang, khu suối khoáng Mỹ Lâm, Na Hang. Ngoài ra, còn có một số địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng như đền Pác Vãng, Pác Ta hay Thương Lâm, Phúc Lâm…
Do các địa điểm du lịch ở Tuyên Quang cách nhau khá xa, do đó mình sẽ lấy thành phố Tuyên Quang làm trung tâm, sau đó sẽ giới thiệu đường đi cụ thể tới từng địa điểm.
Khu di tích Tân Trào
Khu di tích lịch sử Tân Trào – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan Trung ương ở và làm việc trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nằm trên địa bàn các xã: Tân Trào, Minh Thanh, Trung Yên, Bình Yên, Lương Thiện (huyện Sơn Dương); Kim Quan, Trung Sơn, Hùng Lợi, Trung Minh, Đạo Viện, Công Đa, Phú Thịnh (huyện Yên Sơn). Đây cũng là địa bàn giáp gianh giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Tổng diện tích tự nhiên của toàn khu là 561,1km2, với 18 di tích và cụm di tích tiêu biểu, đã được xếp hạng di tích quốc gia.
Đình Tân Trào
Đình Tân Trào là một đình nhỏ được xây dựng vào năm 1923 theo kiểu nhà sàn, cột gỗ, ba gian hai chái, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và là nơi hội họp, sinh hoạt văn hoá của dân làng. Đình thờ 8 vị thành hoàng làng đại diện cho các thần sông, thần núi của làng Tân Lập, xã Tân Trào. Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945 đã họp Quốc dân Đại hội để quyết định lệnh tổng khởi nghĩa, 10 chính sách lớn quy định quốc kỳ, quốc ca và cử ra một chính phủ lâm thời.
Đình Tân Trào (Ảnh sưu tầm)
Từ mái đình này, lời kêu gọi cứu quốc được phát đi tới hơn 20 triệu đồng bào cùng đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa dành chính quyền thắng lợi đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đình Hồng Thái
Đình Hồng Thái cách đình Tân Trào gần 1 km trên đường đi Sơn Dương, đình được xây dựng tại địa phận của làng Cả, xã Tân Trào. Năm 1919, đình có tên là đình Làng Cả hay đình Kim Trận. Đình Hồng Thái còn là trạm giao liên và là nơi huấn luyện quân sự trong suốt thời kỳ kháng chiến. Đình còn là điểm dừng chân của các đại biểu toàn quốc về dự Quốc dân Đại hội, là trạm thường trực của “An toàn khu của Trung ương đóng ở Tân Trào”.
Đình Hồng Thái được dựng theo thuật phong thuỷ từ ngàn xưa để lại, đó là thế: “đất tụ thuỷ, nước tụ hội”. Trên thực tế, đình được đặt theo hướng nam lấy núi Thia làm án đình, phía trước là dòng sông Phó Đáy, trước cửa đình có một khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ như: cây đa, cây gạo…
Lán Nà Nưa
Lán Nà Nưa đây là một căn lán nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Nưa, cách làng Tân Lập gần 1 km về hướng đông, lán Nà Nưa được dựng bằng tre theo kiểu nửa sàn, nửa đất của người miền núi, dưới các đám cây rậm rạp. Lán Nà Nưa do đơn vị giải phóng quân dựng để chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ tháng 6 năm 1945 đến cuối tháng 8 năm 1945.
Lán Nà Nưa (Ảnh: RuudNguyen.com)
Lán Nà Nưa có hai gian nhỏ, gian bên trong là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ ngơi, còn gian ngoài là chỗ chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc và tiếp khách. Khi ở lán Nà Nưa, điều kiện làm việc của Bác hết sức gian khổ và khó khăn, với những bữa ăn đạm bạc, chỉ có măng rừng chấm muối, cơm chan nước chè xanh. Tại đây, ngày 4 tháng 6 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ để củng cố căn cứ địa cách mạng, thành lập khu giải phóng và Quân giải phóng, chuẩn bị Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội.
Cây đa Tân Trào
Cây Đa Tân Trào được coi như biểu tượng cách mạng Thủ Đô của khu giải phóng. Dưới bóng cây Đa, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc bản quân lệnh số 1 trước sự chứng kiến của toàn quân giải phóng và nhân dân.
Cây đa Tân Trào (Ảnh sưu tầm)
Ngay sau đó toàn quân đồng lòng dốc sức cùng băng qua Thái Nguyên, tiến thẳng về giải phóng Hà Nội.
Lán Hang Bòng
Hang Bòng nằm gần sát chân núi phía tây xã Tân Trào, cách sông Phó Đáy khoảng 300m. Hang không rộng lắm nhưng có trần cao và thoáng đãng. Trước hang khoảng 50m có một giếng nước tự nhiên được hình thành từ các khe đá. Vị trí của hang không quá khuất nhưng đủ kín đáo, thuận tiện cho việc sinh hoạt, làm việc và quan sát từ xa.
Lán hang Bòng (Ảnh sưu tầm)
Chính vì những lý do đó nên Bác Hồ đã dựng lán tại hang Bòng và ở đây tới ba lần, có lần tới hơn một năm. Lán rộng chừng 20m2, được làm theo kiểu nhà sàn một gian thoáng, hiên lán bằng mái lá, lưng lán tựa vào vách hang. Từ đây có thể nhìn rõ con đường vào trung tâm xã Tân Trào, dòng sông Phó Đáy uốn lượn và cánh đồng làng Bòng trải dài đến đình Hồng Thái.
Khu di tích lịch sử Kim Bình
Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Kim Bình, tỉnh Tuyên Quang là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, gồm 35 di tích, cụm di tích, trên địa bàn bốn xã: Kim Bình, Kiên Đài, Linh Phú, Vinh Quang của huyện Chiêm Hóa. Tại đây, từ ngày 11 đến 19-2-1951, đã diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Đại hội đầu tiên của Đảng ta được tổ chức trong nước.
Khu di tích lịch sử cách mạng Lào (Làng Ngòi – Đá Bàn)
Di tích cách mạng Lào nằm tại tại thôn Làng Ngòi – Đá Bàn, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Từ trung tâm thành phố Tuyên Quang theo quốc lộ 2 (Tuyên Quang – Hà Nội) khoảng 3 km đến ngã ba Bình Thuận, rẽ phải đi theo đường Hiên khoảng 15 km đến Ủy ban nhân dân xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, từ Ủy ban nhân dân xã Mỹ Bằng đi tiếp 2km, rẽ phải 1km đến khu đồi Gò Tre là đến khu di tích Làng Ngòi, đi tiếp 7km theo đường liên thôn là đến khu di tích Đá Bàn.
Di tích được phân bố ở hai khu vực là khu Làng Ngòi và khu Đá Bàn. Khu Làng Ngòi bao gồm các di tích: Hội trường Đại hội đại biểu Neo Lào Ítxala; nơi ở, làm việc của đồng chí Cayxỏn Phômvihản; nơi ở, làm việc của Hoàng thân Xuphanuvông; nơi ở, làm việc của đơn vị bộ đội Lào.
Toàn bộ Khu di tích nằm trên đồi Gò Tre, đồi Tơ thuộc thôn Làng Ngòi, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đã được khoanh vùng bảo vệ là: 1.500m2.
Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang
Bảo tàng Tuyên Quang được xây dựng trên khu đất giữa hồ Tân Quang với diện tích trung bày 1600m2, được chia làm 4 phần: Gian khánh tiết và không gian trưng bày 3 chuyên đề lớn theo các chủ đề.
Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Bảo tàng Tuyên Quang không chỉ là nơi lưu giữ, trưng bày các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh mà còn thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học phản ánh quá trình phát triển về mọi mặt của tỉnh.
Ở góc độ du lịch lịch sử, du lịch văn hóa, công trình còn là một điểm đến của nhân dân Tuyên Quang nói riêng, cả nước nói chung và du khách quốc tế. Đặc biệt phần trưng bày nội thất và sân vườn được thiết kế theo nội dung đề cương trưng bày chi tiết, gạt bỏ sự vụn vặt, trùng lặp nhằm tạo sự hấp dẫn đối với công chúng từ hình thức bên ngoài đến các hiện vật lịch sử – văn hóa.
Thành nhà Mạc Tuyên Quang
Thành nhà Mạc nằm trên địa phận tổ 8, phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang. Thành được xây dựng từ năm 1592, thời nhà Mạc và được sửa chữa vào thời đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19). Thành có vị trí quân sự quan trọng, án ngữ trên bờ sông Lô và nằm trên trục giao thông thuỷ bộ thuận lợi, từng gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của vùng quê cách mạng Tuyên Quang.
Thành nhà Mạc (Ảnh sưu tầm)
Việc xây dựng thành đến nay còn để lại nhiều truyền thuyết ly kỳ. Tương truyền thành chỉ xây trong một đêm đã hoàn tất. Thành cấu trúc theo kiểu hình vuông, mỗi bề tường dài 275 m; cao 3,5 m; dày 0,8 m; diện tích 75.625m2. Ở giữa mỗi mặt thành có một vành bán nguyệt, giữa vành bán nguyệt đó là cửa, trên cửa xây tháp, mái ngói. Trong tường có một con đường nhỏ xung quanh dùng làm đường tiếp đạn lên thành.
Bao bọc tường thành là một lớp hào sâu ngập nước theo kiểu phòng thủ “thành cao, hào sâu” thời trung cổ. Gạch xây thành là loại có kích thước lớn hơn nhiều so với gạch chỉ hiện nay, làm bằng thứ đất có nhiều quặng sắt rất rắn – đó là đặc trưng của kiểu gạch thời Lê. Đến đầu đời Nguyễn, thành được sửa chữa, gia cố thêm bằng loại gạch nhỏ. Trong thành chếch hướng bắc là núi Thổ (Thổ Sơn – núi đất) cao 50 m, dốc đứng, phải qua 193 bậc đá mới lên tới đỉnh. Thổ Sơn cũng chỉ đắp trong một đêm, toàn bộ Thổ Sơn nằm gọn trong thành, phạm vi kiểm soát của cao điểm rất rộng. Cửa đông khống chế đường bộ duy nhất thời đó và sông Lô là tuyến đường thuỷ quan trọng khi chưa có phương tiện cơ giới trên bộ.
Thành cổ Tuyên Quang còn khá nguyên dạng cho đến cuối thế kỷ 20 và được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Trong quá trình xây dựng, phát triển của thị xã Tuyên Quang, một số trục đường của thị xã chạy qua vị trí thành cổ nên hiện nay thành cổ Tuyên Quang bị chia cắt. Hiện còn lại hai cổng thành phía bắc và phía tây. Đoạn tường thành còn lại duy nhất nằm trên góc đường Bình Thuận và Cổng Lấp, dài chưa đến 100m
Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm
Nằm cách thị xã Tuyên Quang không quá xa, chỉ khoảng 13km nên việc tới đây du lịch sẽ rất thuận tiện. Tại đây có nguồn nước khoáng nằm ở ngọn đồi thoai thoải nên tới đây vừa thăm quan khám phá vừa du lịch nghỉ dưỡng sẽ rất phù hợp.
Khu vực tắm bùn của suối khoáng Mỹ Lâm (Ảnh: luhanhvietnam.com.vn)
Được phát hiện vào những năm của thập niên 60. Sau đó đã được xây dựng thành khu nghỉ dưỡng nổi tiếng được nhiều người biết tới. Bởi không chỉ mang lại tinh thần thư thái cho du khách mà tắm suối khoáng còn có tác dụng hỗ trợ chữa bệnh rất tốt. Chính điều này càng khiến cho khu du lịch này trở nên thu hút du khách trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu.
Nhiều người khi đặt chân tới vùng đồi núi này thường chọn suối khoáng Mỹ Lâm để tới nghỉ dưỡng, xả stress. Nguồn nước khoáng tại Mỹ Lâm là sunfua nên khi tắm sẽ giúp thư giãn cơ thể rất tốt. Bất cứ ai khi ghé qua cũng cảm thấy thích thú. Bởi việc được đắm chìm trong làn nước ấm áp sẽ giúp xua tan đi mọi mệt mỏi và áp lực của cuộc sống.
Khu du lịch sinh thái Na Hang
“Ai lên Tuyên Quang, ngược vòng cung Lô Gâm tới Na Hang quê em Ai bay trên không tới miền Thượng Lâm thấy chín mươi chín ngọn núi, đấy chính là Na Hang quê em…”
Giai điệu bài hát “Tâm tình cô gái Nà Hang” của nhạc sỹ Lê Việt Hòa như vấn vương, như mời gọi du khách hãy đến với Na Hang, đến với chín mươi chín ngọn núi phượng hoàng và đến với “nàng tiên xanh” giữa đại ngàn… để xua đi cái nắng oi bức của mùa hè nơi phố thị phồn hoa.
Nằm trên địa bàn hai huyện Na Hang và Lâm Bình, Khu Du lịch sinh thái Na Hang có tổng diện tích 15.000ha trong đó bao gồm 8000ha diện tích mặt nước.
Trong những năm gần đây, huyện Na Hang đã xây dựng được các tour du lịch sinh thái trên lòng hồ với chiều dài khoảng 70km, các tour du lịch đó sẽ đưa du khách đắm mình với thiên nhiên sông nước và núi rừng, được tìm hiểu về từng sự tích gắn với mỗi địa danh nơi đây.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Na Hang
Nhà máy thủy điện Na Hang
Đây là nhà máy thuỷ điện có công suất lớn thứ tư của miền Bắc sau nhà máy thủy điện Lai Châu, Sơn La và Hoà Bình. Nhà máy trước đây còn được gọi là Nhà máy thủy điện Na Hang hiện tên chính thức là Nhà máy thủy điện Tuyên Quang, nằm trên lưu vực sông Gâm, thuộc địa phận xã Vĩnh Yên và thị trấn Na Hang.
Nhà máy thủy điện Tuyên Quang đặt tại huyện Na Hang (Ảnh: Đỗ Thành)
Hồ Na Hang – Lâm Bình có dung tích chứa nước lên tới hơn 2 tỷ m3, công suất 342Mw, sản lượng điện hàng năm đạt trên 1.295 triệu kw- là một trong những hồ thủy điện lớn nhất khu vực phía Bắc.
Lòng hồ Na Hang
Hồ Na Hang là một hồ nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang. Hồ được hình thành do dâng nước làm nhà máy thủy điện. Lòng Hồ Na Hang là nơi hội tụ của hai dòng sông trữ tình là: sông Gâm và sông Năng, được bao bọc xung quanh bởi 99 ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp. Nơi đây còn được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều loại động vật quý hiếm, đặc biệt là loài voọc mũi hếch được ghi vào sách đỏ thế giới.
Cọc Vài Phạ
Nằm cách trung tâm TP. Tuyên Quang khoảng 100 km về phía Bắc, Cọc Vài hay còn gọi là Vài Phạ, trong tiếng Tày nghĩa là cọc buộc trâu, là một trong những địa danh thuộc thị trấn Nà Hang. Địa danh này vốn nổi tiếng với truyền thuyết về chàng Tài Ngào đắp đập ngăn nước cho dân bản và cũng là một địa danh sơn thủy hữu tình, cuốn hút con người vào một hành trình khám phá vô cùng lí thú đầy hấp dẫn.
Cọc Vài Phạ trên hành trình thăm hồ Na Hang (Ảnh: Nguyễn Tiệp Hà Giang)
Cọc Vài vốn là một cột đá cao hàng trăm mét nằm sâu trong vùng 99 ngọn núi đá vôi vùng Thượng Lâm (Lâm Bình- Tuyên Quang). Trước khi có nước hồ thủy điện, hiếm có ai đến được nơi này bởi địa hình quá hiểm trở. Khi nước hồ dâng lên thì việc đến thăm thắng cảnh bằng thuyền trở nên dễ dàng hơn. Đến nơi đây, du khách vừa thưởng thức cảnh đẹp, vừa được nghe câu chuyện về chàng không lồ đắp đập ngăn nước cho dân bản mà không muốn dứt ra khỏi sự nguyên sơ và kì bí đó…
Thác Mơ
Thác Mơ có ba tầng thác: Tầng thứ nhất, thác nước như thể hiện sức mạnh với tiếng nước đổ dữ dội, các con nước nối đuôi nhau bật vào những khối đá chắn ngang dòng tung bọt trắng xóa; Tầng thứ hai dòng nước nhẹ nhàng luồn qua những kẽ đá, chân thác có một hồ nước nhỏ trong vắt, người ta bảo rằng hồ nước ấy chính là nước mắt của nàng Mơ ngồi khóc ở đó mỗi khi đêm xuống; Tầng thứ 3 là đỉnh của thác, nước từ trên cao dội xuống như một máng nước khổng lồ. Từ đây, phóng tầm mắt ra xa là khung cảnh của những vạt rừng nguyên sinh, cùng với tiếng chim hot líu lo và ánh nắng rực rỡ xuyên qua những tán cây rừng rậm rạp sẽ là trải nghiệm thú vị trong hành trình khám phá vẻ đẹp của thác Mơ.
Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ – Bản Bung
Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ – Bản Bung có diện tích 41.930ha, nằm trong khu rừng Na Hang, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số: Tày, Dao, Mông,… sinh sống. Là một trong những khu vực có nền địa chất đa dạng, sinh thái rừng á nhiệt đới đặc trưng ở vùng Bắc Đông Dương với độ đa dạng thực vật rất cao cùng với các loài động vật đang được xếp vào hàng bảo vệ khẩn cấp như Vọc mũi hếch, ron, rùa đất,…
Nước xanh biếc trong lòng hồ vào Bản Bung, Na Hang (Ảnh: Nguyễn Tiệp Hà Giang)
Nằm trong địa phận rừng Na Hang và một phần thuộc Hồ Thủy Điện Tuyên Quang, Khu Bảo tồn Tát kẻ Bản Bung trải dài trên 4 xã Côn Lôn, Khau Tinh, Sơn phú và Thanh Tương – phía Đông Nam huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang với diện tích bảo tồn hơn 41.930 ha. Trong đó có hai phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là : khu Tát Kẻ phía Bắc với 12.500 ha; khu Bản Bung phía nam với 15.020 ha. Cùng với khu bảo tồn Hồ Ba Bể, khu vực tạo nên tổ hợp khu bảo tồn thiên nhiên Ba Bể – Na Hang quan trọng tại khu vực miền núi phía Bắc.
Đền Pác Vãng
Đền Pác Vãng là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng Na Hang. Ngôi đền này thu hút mọi du khách bởi có vị trí địa lý vô cùng đặc biệt. Ngôi đền này có lối thiết kế rất đặc sắc, nằm giữa vùng đồi núi bao la tại Na Hang. Với sự xuất hiện của một ngôi đền trong khoảng không gian rừng núi tạo nên không gian huyền bí cho mọi du khách khi đến tham quan.
Ngôi đền thờ vị Quan đế Đại thần và thờ Mẫu. Đền được xây dựng bao gồm hai ngôi đền nhỏ. Một ngôi đền thờ Quan công và tứ phủ công đồng với mong muốn ngài sẽ giúp đỡ nhân dân làm ăn thuận lợi và phát đạt. Một ngôi đền thờ mẫu để thờ Phật, Bồ Tát và tam tòa tiên thánh với mong muốn các ngài mang lại bình an cho dân con.
Thác Nặm Me
Thắng cảnh thác Nặm Me, thuộc khu vực Hát Nghiền xã Khuôn Hà: Còn có tên thường gọi trong nhân dân là thác Nước Mẹ là con thác lớn bắt nguồn từ rừng đại ngàn Sinh Long. Nước được dồn từ nhiều khe nhỏ chảy ngầm qua những dãy núi trong khu bảo tồn Tát Kẻ-Bản Bung đến dãy núi Hát Nghiền, dòng nước lộ ra ngoài và đỏ xuống thành dòng thác lớn, thác Nạm Me được phân cấp thành 15 tầng thác lớn nhỏ xen lẫn nhau thành một dòng thác đổ xuống như một dải lụa trắng.
Đền Pác Tạ
Di tích đền Pác Tạ là một trong những dấu tích còn lại minh chứng cho cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1285: vị tướng tài giỏi Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật lúc đó đương trấn thủ vùng đất Tuyên Quang đã khôn khéo chỉ huy quân chống giặc từ Vân Nam xuống. Theo những tư liệu lịch sử cho thấy, ngôi đền Pác Tạ được dựng lên bên Gâm giang dưới ngọn Tạ sơn để phụng thờ và ngưỡng vọng vị hôn phu (người vợ sắp cưới) của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.
Đền Pác Tạ, Na Hang (Ảnh sưu tầm)
Đền Pắc Tạ nằm ở địa thế cao, bằng phẳng dưới chân núi Pắc Tạ. Cửa đền quay hướng Nam trông ra dòng sông Gâm. Ban đầu, đền Pắc Tạ nằm trên một doi đất bên hữu ngạn sông Năng phía đối diện với vị trí hiện tại. Đền được dựng với kết cấu 3 gian 2 chái bằng tranh, tre, nứa, lá. Nhưng có một hôm, trời nổi cơn giông lớn, mái đền bị gió cuốn bay qua sông sang rẻo đất cao đối diện, dưới chân núi Pắc Tạ ngày nay. Người dân địa phương cho rằng đây là ý muốn của Thánh Mẫu nên từ đó, ngôi đền được dựng dưới ngọn núi Pắc Tạ. Ngày nay, núi Pắc Tạ và đền Pắc Tạ là điểm du lịch sinh thái, tâm linh hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế khi đến Na Hang.
Thượng Lâm
Với dân số trên 6 vạn người gồm các dân tộc Tày, Dao, Kinh, Mông… sống trên địa bàn 8 xã. Đồng bào Tày, Dao là cư dân chủ yếu và cư trú ở đây từ rất lâu đời. Người Tày, người Kinh thường cư trú ở vùng thấp, còn người Dao và người Mông cư trú độc lập trên các triền núi cao. Bởi vậy, Lâm Bình mang nhiều sắc thái văn hóa độc đáo và đa dạng của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
Lâm Bình còn là mảnh đất có nhiều cảnh đẹp như thác Nậm Me, động Song Long, xã Khuôn Hà, thác Khuổi Nhi, Khuổi Súng ở xã Thượng Lâm; Cọc Vài nằm trong vùng lòng hồ thủy điện Tuyên Quang… Sự kết hợp hòa quyện giữa cảnh quan thiên nhiên với các điểm dân cư giàu bản sắc văn hóa truyền thống đã và đang cuốn hút các du khách có dịp đến với Lâm Bình. Điều đặc biệt là ở vùng đất Lâm Bình, từng tên núi, tên sông đều gắn liền với những câu chuyện truyền thuyết đầy sắc mầu huyền thoại và bí ẩn.
Thác Khuổi Nhi
Nằm bên vùng lòng hồ sinh thái Na Hang rộng hơn 8.000 ha, thác Khuổi Nhi, thuộc địa phận xã Thượng Lâm (Lâm Bình) là điểm dừng chân lý thú, không thể thiếu của du khách. Bắt đầu hành trình chạy thuyền khách từ chân đập thủy điện Tuyên Quang, hơn 1 giờ lênh đênh trên lòng hồ, ngắm cảnh đẹp hai bên, du khách đã tới được thác Khuổi Nhi.
Thác Khuổi Nhi (Ảnh sưu tầm)
Nhìn từ xa, thác có nhiều tầng, chảy dài 3 km từ trên đỉnh núi xuống lòng hồ mềm mại tựa như suối tóc nàng tiên giữa đại ngàn.
Động Song Long
Thắng cảnh động Song Long (Khuôn Hà) là một hang động đẹp và và có quy mô khá lớn trong vùng, Đây là hang động đẹp và lớn. Mất khoảng 3 giờ đi ca nô trên hồ thủy điện Tuyên Quang là đến được thắng cảnh động Song Long thuộc xã Khuôn Hà. Đây là hang động đẹp, có quy mô khá lớn.
Động Song Long (Ảnh sưu tầm)
Động Song Long cách mặt nước hồ thủy điện trên 200m, lòng hang có chiều cao khoảng 40m, rộng khoảng 50m, sâu trên 200m, trong hang có nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương, lòng hang được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau, rất hấp dẫn.
Chùa Phúc Lâm
Chùa Phúc Lâm thuộc xã Thượng Lâm (Lâm Bình). Chùa có tên đầy đủ là “Phúc Lâm Tự”. Chùa tọa lạc trên một gò đất cao, rộng và bằng phẳng, quay theo hướng Tây Nam nhìn ra cánh đồng bản Nà Tông. Phía xa hơn nữa là những dãy núi Thượng Lâm trùng điệp, mây trắng bao phủ quanh năm.
Chùa Phúc Lâm (Ảnh sưu tầm)
Khuôn viên của chùa Phúc Lâm nằm trên gò đất rộng khoảng 600m², hiện nay, trên nền cũ của ngôi chùa vẫn còn bình đồ kiến trúc khởi nguyên của nó. Nền móng có hình chữ Đinh, gồm hai đơn nguyên kiến trúc là toà Tiền đường và toà Thượng điện. Chùa Phúc Lâm ngoài thờ Phật còn thờ các vị thần bản địa, gắn bó trực tiếp với cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây. Đây cũng là một nét sinh hoạt tín ngưỡng độc đáo tại một ngôi chùa vùng cao.
Ruộng bậc thang Hồng Thái
Ruộng bậc thang này nằm ở địa phận xã Hồng Thái, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Từ thành phố Hà Nội, với quãng đường gần 300km. bạn di chuyển theo hướng thành phố Vĩnh Yên, thẳng quốc lộ 2 để tới được thành phố Tuyên Quang, tiếp tục quốc lộ 2 đến đoạn km31, rẽ phải theo hướng Chiêm Hóa là sẽ đến thị trấn Na Hang.
Ruộng bậc thang Hồng Thái (Ảnh: Đặng Dương)
Từ đây, du khách đi tiếp 40km mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, về phía đông bắc là tới xã Hồng Thái – nơi có những ruộng bậc thang bao la. Bạn nên đi vào tháng 9 hoặc tháng 10 vì đây là thời điểm lúa chín và bạn sẽ được tham gia vào lễ hội ruộng bậc thang Hồng Thái.
Thác Bản Ba
Thác Bản Ba có ba tầng thác. Tầng thác thứ nhất có tên gọi là Tát Củm, là tầng thác có dáng vẻ hùng vĩ và thơ mộng nhất. Chân thác là “vực rồng” (tiếng Tày gọi là “vằng tạng” hay “vằng luồng”), nơi có vách đá giống như hình rồng cuốn, có mạch nước ngầm phun ra giống hình tượng rồng phun nước hòa với ánh sáng mặt trời tạo ra 7 sắc cầu vồng lung linh kỳ ảo.
Thác Bản Ba (Ảnh sưu tầm)
Tầng thác thứ 2 có tên gọi là Thác Cao, là tầng thác được chia làm hai nhánh đổ xuống trông như hai dải lụa trắng tung bay trong không gian giữa núi rừng. Dưới chân thác có một vực nước trong xanh có tên là “vực quyên”, du khách có thể đắm mình dưới vùng nước trong xanh và mát mẻ. Trên bờ của tầng thác này có những phiến đá trông như hình rồng uốn mình nằm phục trên bờ tạo nên vẻ hoang sơ, kỳ vĩ mà hấp dẫn đến lạ thường.
Tầng thác thứ 3 chảy dọc theo những phiến đá vôi xuống vực sâu có tên gọi là Vực Linh (vực linh thiêng). Tại đây du khách có thể đắm mình xuống dòng nước trong xanh và mát dịu, lắng nghe âm thanh của dòng thác đổ và tiếng hót của các loài chim rừng…
Động Tiên
Được mệnh danh là một Phong Nha giữa đại ngàn Đông Bắc, quần thể Động Tiêntrên lưng núi đá Chân Quỳ là thắng cảnh mê hồn nhất trong quần thể hang động vùng ba núi châu đầu – Chân Quỳ, Bạch Mã, núi Tọa, nay thuộc xã Yên Phú, huyện Hàm Yên. Danh thắng Việt Nam này chỉ cách thị xã Tuyên Quang gần 60 km.
Khu du lịch Núi Dùm
Nằm trong thung lũng hình lòng chảo với địa thế nghiêng theo hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và bốn bề được bao bọc bởi các ngọn núi, cụm Núi Dùm – Cổng Trời là một vùng cảnh quan đẹp thuộc địa phận xóm 15, 16 xã Tràng Đà – thành phố Tuyên Quang, cách thành phố Tuyên Quang chừng 4km. Nơi đây có độ cao 350m so với khu dân cư ở phía dưới, khí hậu mát mẻ trong lành với nhiệt độ trung bình từ 22º – 24ºC, được nhiều người ví như Tam Đảo của thành phố Tuyên Quang.
Không chỉ tập trung hệ động, thực vật phong phú của khu rừng phòng hộ, cụm Núi Dùm – Cổng Trời còn sở hữu nhiều thắng cảnh với suối, thác nước và hang động trên dãy núi đá vôi. Những dòng suối bắt nguồn từ núi Dốc Ông và Đát Tư Khang đổ xuống núi Cấm, vắt ngang qua các sườn đá uốn lượn quanh thung lũng đã tạo nên dòng thác 11 tầng hùng vĩ, hợp cùng núi Dốc Ông, núi Dốc Bà, thác Đát Tư Khang, thác Cấm, thác Cổng Trời, hang Bà Cún, hang Dơi, hang Ngà Voi… tạo thành một quần thể cảnh quan hữu tình giữa thiên nhiên hoang sơ.
Các điểm du lịch tâm linh
Đền Hạ
Đền Hạ Tuyên Quang là một công trình lâu đời, linh thiêng, nơi người dân tìm về chiêm bái. Đền Hạ là nơi thờ Mẫu Thượng ngàn, Phương Dung công chúa, con gái vua Hùng. Đền được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (năm 1991) và xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cổ (năm 1994).
Đền Hạ Tuyên Quang (Ảnh: foox.vn)
Đền Thượng
Đền Thượng thuộc xã Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang, đền thờ Mẫu Thần, được dựng vào năm 1801. Truyền thuyết kể rằng: Đời trước hai công chúa Ngọc Lân, tức Mai Hoa và Phương Dung, tức Quỳnh Hoa theo xa giá đi xem xét địa phương, đỗ thuyền ở bờ sông. Đến đêm nổi cơn mưa gió, hai công chúa vụt bay lên trời, người ta cho là linh dị, lập đền để thờ. Đền thờ Phương Dung công chúa ở phía hữu sông Lô thuộc địa phận xã Ỷ La, tức là đền Hạ ngày nay. Đền thờ Ngọc Lân công chúa ở phía tả sông Lô thuộc xã Tình Húc tức là đền Thượng ngày nay.
Các tư liệu và chính sử có sự chưa thống nhất về thần tích của Thần Mẫu được thờ tại đền Thượng. Tuy nhiên bằng vào hệ thống tượng thờ và hành trình lễ rước cho thấy khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, dân gian đã đưa Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Thoải cùng Ngọc Hoàng, Long Vương, Quan Hoàng vào phối thờ. Chính vì vậy, hai công chúa thờ tại đền Thượng đền Hạ, đền Ỷ La được Mẫu hóa trở thành những vị Mẫu thần. Những ngày lễ của đền đều thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh. Cảnh quan của đền thật là huyền ảo, hữu tình. Trước mặt đền là dòng sông Lô chảy hiền hoà, phía sau là những dãy núi trùng điệp tạo sự linh thiêng huyền bí. Đến đền Thượng, du khách tâm linh vừa đi lễ vừa có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp thơ mộng của sông nước, núi rừng nơi đây.
Đền Mẫu Ỷ Lan
Đền Mẫu Ỷ La thuộc phường Ỷ La thành phố Tuyên Quang. Đền được khởi dựng năm 1743, niên hiện Cảnh Hưng năm thứ 4 và được trùng tu lại vào đầu thế kỷ XIX.
Theo truyền thuyết thì đền Hạ thờ công chúa Phương Dung. Do gặp nạn binh đao đền bị đốt phá nghiêm trọng. Dân cư phải rước tượng thần đến làng Ỷ La để lánh nạn. Năm 1817, Khải Định thứ 3, khởi công dựng lại đền trên địa điểm cũ nhưng quy mô lớn hơn. Khi đó tại địa điểm tượng thần đền Hạ lánh nạn dân làng xây dựng đền Ỷ La cũng thờ công chúa Phương Dung. Đồng thời đền cũng thờ Tam toà Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải.
Đền Mẫu Ỷ La lưu giữ nhiều bảo vật: Ba mươi hai pho tượng; bốn sắc phong vào các năm 1887, niên hiệu Đồng khánh thứ 2; năm 1890 niên hiệu Thành Thái thứ 2; năm 1909, niên hiệu Duy Tân năm thứ 3. Ba sắc phong này ban cho thần Hiệp Thuận và năm 1923, niên hiệu Khải Định thứ 9; hai quả chuông, hai đôi chân đèn, hai lư hương cỡ nhỏ, sáu lư hương cỡ lớn, đôi lục bình cỡ lớn, đôi lục bình cỡ nhỏ, hai bức hoành phi, ba đôi câu đối, ba bộ long ngai, hai bài vị, bộ đài rượu, đôi hạc đồng, hai bức phù điêu, chín khám thờ, hai bộ bát bửu, đôi lọng, sáu bức y môn, đôi tàn. Cùng với đền Thượng, đền Hạ cứ vào dịp từ 11 đến 16 tháng 2 âm lịch hằng năm đền Mẫu Ỷ La lại long trong tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, trong đó phải kể đến lễ rước Mẫu từ đền Ỷ La về đền Hạ và lễ rước Mẫu hoàn cung.
Đền Cảnh Xanh
Đền Cảnh sanh (thường gọi là đền cây Xanh) thuộc phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang. Đền được dựng lên để thờ Hưng Đạo Đại Vương- Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.
Đền Cảnh Xanh, Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Ngoài ra đền còn thờ Đức Thánh mẫu Thượng ngàn. Bà là vị chúa cai quản vùng núi. Ngày lễ lớn nhất của đền là ngày lễ thượng nguyên 11- 12 tháng Giêng âm lịch, thu hút rất đông khách thập phương. Phong cảnh của đền kì thú và trang nghiêm, có cây xanh cổ thụ hàng nghìn năm uy nghi, tuyệt mỹ.
Đền Cấm
Thuộc địa phận xã Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang, nằm trên nền đất cao, không gian thoáng đãng bên bờ sông Lô, phía sau tựa lưng vào núi Cấm. Núi Cấm là một đỉnh trong dải non ngàn trùng điệp chạy mãi qua Tân Long, Ba Xứ, trên cao có “cổng trời” là một thắng cảnh được nhiều du khách biết đến. Từ lưng núi, một con suối nước trong ngời ngợi, len lỏi qua những triền đá dốc, đêm ngày không ngơi đổ xuống sau đền làm cho cảnh sắc càng thêm vẻ kỳ thú. Từ một ngôi miếu nhỏ, qua nhiều đợt trùng tu, nâng cấp nay đền Cấm có kiến trúc khang trang theo lối nội công ngoại quốc với đền thờ chính đặt ở vị trí trung tâm, hai bên phải trái là cung chầu bà và cung sơn trang.
Hằng năm, đền có các ngày lễ: ngày mùng 10 tháng Giêng là lễ Thượng Nguyên, giải hạn; ngày mùng 2 tháng 5, ngày Bà Chúa bản đền mở tiệc; ngày mùng 10 tháng 4 lễ vào hè, cầu mát; ngày 16 tháng 2 và tháng 7 lễ hoàn cung, có rước tượng Mẫu.
Đền Mỏ Than
Đền Mỏ than (Sơn Thán Linh Từ) thuộc tổ 35, phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang. Đền Mỏ Than được dựng vào đầu thế kỷ XX trên một quả đồi nhỏ, xung quanh cây cối bốn mùa xanh tươi, dưới chân đồi là dòng Lô uốn khúc như bao bọc che chở cho ngôi đền. Ban đầu là đền được dựng nêm để thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần), về sau đền mới trở thành nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn cùng các vị thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt; Mẫu Thượng ngàn có vị trí đặc biệt quan trọng, là người cai quản miền núi rừng và ngàn cây. Hành trạng của bà thể hiện qua lời hát chầu văn:
Mỏ Than cô bé thấp cao
Mấy tầng lộng lẫy treo vào cây xanh
Xa xưa huyền thoại chuyển mình
Linh từ chốn ấy anh linh muôn đời
Hang rùa nước đọng đầy vơi
Vết chân còn đó muôn đời về sau…
Đền Kiếp Bạc
Di tích đền Kiếp Bạc thuộc phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang. Đền Kiếp Bạc hay còn có tên chữ là “Kiếp Bạc linh từ” (đền thiêng Kiếp Bạc). Đền được dựng lên thờ Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn, một nhân vật kiệt suất trong lịch sử, một người anh hùng dân tộc đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xân lược nước ta vào nửa cuối thế kỷ XIII để viết lên bản hhùng ca bất hủ với hào khí Đông A của quân dân Đại Việt.
Đền Kiếp Bạc, Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Bằng tất cả niềm tin ngưỡng vọng và sự tôn kính của người dân Tuyên Quang nói riêng và nhân dân Đại Việt nói chung Ông đã được suy tôn là vị thánh, người cha tinh thần của dân tộc Việt Nam tôn kính và lập đền thờ để thờ phụng: “Tháng tám giỗ cha thánh ba giỗ mẹ”
Đền Bách Thần
Đền Bách Thần được xây dựng trên sườn núi Bách Thần, thị trấn Vĩnh Lộc do nhân dân và du khách thập phương đóng góp, công đức xây dựng đền. Theo những người cao niên ở huyện Chiêm Hóa, đền Bách Thần rất linh thiêng đối với cuộc sống của dân bản địa. Đây là đền thờ trăm vị thần, là các anh hùng dân tộc, người có công với địa phương… Đền Bách Thần còn thờ Tam Quang là mặt trời, mặt trăng, các vì sao, đem đến sự sống cho con người.
n Bách Thần gắn liền với Lễ hội Lồng tông của nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa. Hàng năm, ngày 8 tháng Giêng âm lịch, huyện Chiêm Hóa tổ chức Lễ hội Lồng tông (lễ hội xuống đồng). Đây cũng là ngày đại lễ của đền. Người dân mang những sản phẩm nông nghiệp (lúa, đậu, đỗ…) mà họ thu hoạch được trong năm, bọc trong những quả còn với tua rua ngũ sắc mang dâng cúng tại Đền cùng với các lễ vật khác, báo ơn các vị thánh thần đã ban cho vụ mùa bội thu. Đã từ lâu, đền Bách Thần có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của bà con nhân dân các dân tộc nơi đây.
Chùa An Vinh
hùa An Vinh có tên chữ là “An Vinh Thiền Tự” thuộc tổ 7, xã Hưng Thành, thị xã Tuyên Quang. Theo tấm bia: “Tạo tác hưng công bi ký” (Bia ghi việc công đức xây dựng chùa) được tạc vào năm Vĩnh Thịnh thứ 16, triều vua Lê Dụ Tông (năm 1720) thì chùa An Vinh được khởi dựng vào đầu thế kỷ 18.
Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, chùa An Vinh đã nhiều lần được trùng tu, sửa chữa. Hiện nay, chùa có kiến trúc kiểu chữ “Đinh – J” (lối kiến trúc gọi theo tính tượng hình của tiếng Hán) gồm toà Thiêu hương và tòa Thượng điện. Tòa tiền đường nằm phía trước chùa. Phía trước cổng chùa còn bút tích câu đối cổ:
“Quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố
Phật pháp vô cùng nhật nguyệt trường”.
Tạm dịch:
Đất nước có sông núi, bờ cõi mà tồn tại mãi mãi.
Giáo lý của đức Phật nhờ ngày tháng mà lưu đến không cùng
Chùa Hương Nghiêm
Chùa Hương Nghiêm hay còn gọi là chùa Hang ở dưới chân núi Hương Nghiêm thuộc xóm Phúc Thọ, xã An Khang, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Chùa Hương Nghiêm được xây dựng vào thời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), niên hiệu Đại Chính thứ 8 (năm 1537) tại thôn Thúc Thủy, xã Thúc Thủy, tổng Thường Túc. Nay là thôn Phúc Thọ, xã An Khang. Ngôi chùa được xây dựng từ sáng kiến của hai vị quan hiến sát là Ngô Thọ Khê và Vũ Trạch Xuyên.
Chùa Hương Nghiêm nằm trong hang đá tự nhiên với 2 mái vòm đá và nhiều nhũ đá rủ xuống đủ mọi hình thù. Đặc biệt có nhũ đá hình cổ thụ, tạo cho hang đá một vẻ đẹp kỳ thú, bí ẩn.
Những năm gần đây, chùa Hương Nham hay Hương Nghiêm đã được trùng tu xây mới có quy mô bề thế hơn trước rất nhiều. Toàn bộ khu vực thờ phụng chính vẫn đặt trong động. Ban Tam bảo với 13 pho tượng tạc bằng đá được đặt trên các bệ thờ. Trên cùng là ba pho tượng Tam thế, hàng thứ hai là tượng A di đà đặt giữa, hai bên là tượng Quan âm bồ tát và Đại thế chí bồ tát. Hàng thứ ba giữa đặt tượng Thích ca, hai bên là tượng An Nam và Ca Diếp. Hàng thứ tư cũng là hàng cuối cùng đặt tượng Quan âm Nam Hải và Văn thù bồ tát.
Bên trái Tam bảo là tượng Đức Thánh Trần, bên phải là tượng Đức ông. Phía sau Tam bảo là nơi thờ Địa tạng vương cũng được tạc bằng đá. Trong lòng hang, phía bên phải là Ban thờ Mẫu gồm ba pho tượng Tam tòa thánh mẫu; tiếp đến bộ tượng Ngũ vị tôn ông hai bên có tượng cô và tượng cậu. Trong hang còn có động Sơn trang, lầu thờ quan thế âm bồ tát, ban thờ Trần Hưng Đạo. Điều đặc biệt chú ý là ngay chính giữa lòng hang có một tảng đá hình con thuyền, bên cạnh đó có đặt tượng Quan âm bồ tát ngồi khoanh chân trên tòa sen. Ngoài sân chùa hiện đặt một pho tượng Niết bàn nằm dài 27 mét, gần đó có gác chuông với quả chuông đồng nặng 1.400 kg.
Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc
Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là ngôi chùa cổ nhất hiện còn tìm thấy ở Tuyên Quang, là nơi còn lưu giữ được tấm bia thời Lý quý giá trên phạm vi cả nước. Ngôi chùa do một dòng họ thế tập đứng ra xây dựng mà người chủ trì là Hà Hưng Tông, hậu duệ đời thứ 15 giữ chức châu mục châu Vị long. Chùa được xây dựng vào năm 1107 dưới thời vua Lý Nhân Tông (Càn Đức) niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa. Chùa do thái phó Hà Hưng Tông – Tri châu Vị Long, Phó Ký lang, Đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, Kim tử quang lộc đại phu, Kiểm hiệu thái phó, Đồng quang trung thư môn hạ bình chương sự, kiêm quán nội quản nội khuyến nông sự, Thượng trụ quốc, thực ấp ba nghìn chín trăn hộ, thực ấp chín trăn hộ chủ trì xây dựng.
Hiện nay tại chùa còn lưu giữ được tấm bia được tạc bằng đá xanh nguyên khối vào thời nhà Lý. Bia có chiều cao 1,39m rộng 0,8m và dày 0,8m. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá, rùa có chiều dài 1,50m, rộng 0,09m cao 0,32m, cổ và đầu rùa dài 0,38m. Phần chân bia dài 0,59m, rộng 0,09m cắm vào lưng rùa. Rùa được đặt trên mặt đất, 4 chân tạc nổi, mỗi chân có 5 móng, đuôi rùa mỏng, được tạc uốn cong vắt lên lưng.
Đầu rùa ngẩng cao, tạo vẻ uy nghi đường bệ. Toàn thân rùa cũng được tạc bằng phiến đá xanh nguyên khối với những nét trạm rất tinh tế, mềm mại, hình khối cân đối và vững trãi. Lưng rùa nhẵn và tròn trịa, giữa lưng có đục một mộng ghép hình chữ nhật để ghép chân bia và chính mộng ghép này giữ cho bia đứng ngay ngắn trên lưng rùa. Diềm bia được trang trí dầy đặc cả ba phía ( trừ chân bia) bằng các hoa văn kiểu hoa mướp cái nọ nối cái kia uyển chuyển và liên hoàn không rứt, hai bên cạnh bia cũng được trang trí hình tròn, trong có trang trí hình rồng và các hình tròn bên trong có các hình hoa sen cánh xen kẽ nhau. Trán bia khắc dòng chữ lớn: “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi”. Văn bia khắc kín phần thân bia còn lại, gồm 25 dòng với 1130 chữ, hai góc của trán bia có khắc hình hai con rồng với đặc trưng nổi bật của rồng thời Lý.
Thân rồng hình tròn trặn có nhiều khúc uốn lượn, thân dài và nhỏ dần về phía đuôi chứa đựng dáng dấp của một con rắn. Khúc uốn của rồng nhẹ nhàng thanh thoát với nhiều hình tròn được nối với nhau thành một chuỗi dài liên tiếp. Đầu rồng không lớn rất cân đối với thân rồng và có bờm khá dài phía sau gáy. Hai con rồng chầu hai bên trán bia đều ở tư thế nhìn nghiêng và giống hệt nhau cả về khích thước cũng như kiểu dáng, làm nền cho hình tượng con rồng là các hoa vân mây và một số hoa văn hình chữ S, biểu hiện ý niện về mây, mưa, sấm, chớp.
Chùa Phúc Lâm
Chùa Phúc Lâm tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ, quay theo hướng Tây Nam nhìn ra cánh đồng bản Nà Tông, thờ Phật và các vị thần bản địa; phía xa hơn nữa là những dãy núi Thượng Lâm trùng điệp, mây trắng bao phủ quanh năm. Tương truyền rằng, những dãy núi kia là “đàn phượng hoàng lửa đi tìm đất làm kinh đô” xưa hóa thành. Ngọn núi ở phía sau chùa Phúc Lâm được gọi là núi Cô Tiên cao sừng sững, càng làm cho quần thể ngôi chùa và thung lũng Thượng Lâm thêm màu huyền thoại.
Trải qua thời gian, chùa Phúc Lâm đã bị hư hại. Trên nền ngôi chùa cũ, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhiều dấu tích, hiện vật như: mảnh đế, thân, mái tháp bằng đất nung; các mảng phù điêu đất nung hình rồng, chim phượng hoàng, hoa sen cách điệu, chim thần Garadu; các tảng đá xanh kê chân cột, hệ thống tượng thờ gỗ… Nền móng cũ chùa có hình chữ Đinh, gồm hai đơn nguyên kiến trúc là tòa Tiền đường và tòa Thượng điện.
Trên thực tế, dù chưa có tài liệu hay văn bản nào nói về thời gian xây dựng chùa Phúc Lâm, nhưng qua các hiện vật, các dấu tích khai quật được, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Phúc Lâm mang phong cách kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc từ thời Trần. Điều này chứng tỏ lịch sử khai phá lâu đời và sinh hoạt tôn giáo phong phú của người dân địa phương. Việc phát hiện những dấu tích của chùa Phúc Lâm cũng đã đóng góp quan trọng vào quá trình nghiên cứu lịch sử, kiến trúc và mỹ thuật tôn giáo thời Trần ở vùng Lâm Bình – Tuyên Quang.
Các món ăn ngon ở Tuyên Quang
Xôi ngũ sắc
Để có món xôi ngũ sắc, người làm phải chọn gạo nếp nương mới gặt, hạt to đều và dùng những cây cỏ thiên nhiên để tạo màu xôi. Lá co khảu thường được dùng để tạo màu; lá co khảu cắm thành màu xanh tím, co khảu đeng thành màu đỏ. Để tạo màu vàng, bà con thường dùng lá củ hản mẩu màu vàng nghệ.
Xôi ngũ sắc có thể dễ dàng tìm thấy trong các phiên chợ vùng cao (Ảnh sưu tầm)
Ngoài ra, một nguyên liệu không thể thiếu là một loài hoa rừng có mùi thơm rất đặc biệt dùng để đồ xôi. Loài hoa này chỉ nở một lần vào tháng 2 âm lịch, do vậy bà con dân tộc Tày thường hái về phơi khô rồi cất dùng quanh năm.
Người Tày quan niệm xôi ngũ sắc gồm các màu đỏ tươi, đỏ thẫm, vàng, nâu và tím tượng trưng cho ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Màu xôi khi làm xong càng đẹp thì năm ấy gia đình càng làm ăn phát đạt, thịnh vượng.
Bánh nếp trứng kiến
Bánh nếp nhân trứng kiến (hay còn gọi Péng Lăng Lay) là món ăn ngày xuân của người Tày ở Tuyên Quang. Dù lên Tuyên Quang bao nhiêu lần mà không đúng dịp thì du khách cũng không có cơ hội được thưởng thức chiếc bánh nếp nhân trứng kiến độc đáo này. Bởi mùa xuân mới là thời gian sinh sản của kiến đen và lúc này, người dân mới kiếm được nhiều trứng kiến ngon làm bánh.
Bánh trứng kiến Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Người Tày chỉ dùng trứng kiến đen để chế biến món ăn vì không phải trứng kiến nào cũng ăn được. Trứng của kiến đen (người Tày gọi là “tua rày”) loại kiến có thân nhỏ, đuôi nhọn được cho là lành nhất. Loài kiến này thường làm tổ, đẻ trứng trên những chạc cây không cao lắm và thường được thu lượm ở cây ngõa, xoan, quế, găng, vầu.
Nhân bánh làm từ trứng kiến. Trứng được xào qua cùng hành phi, rau thì là thái nhỏ và nêm chút muối để miếng bánh đậm vị, hấp dẫn hơn. Xào trứng kiến cũng phải hết sức khéo léo, chỉnh độ lựa vừa phải để trứng không bị vỡ, nát, chảy sữa. Ngày nay, trứng kiến không còn dồi dào như trước nên người dân thường trộn thêm nhiều nguyên liệu khác như thịt lợn băm nhỏ, hành khô, vừng, lạc rang giã nhỏ làm nhân.
Điều đặc biệt là người Tày không sử dụng lá chuối hay lá dong, mà dùng lá vả (hoặc lá sung) loại bánh tẻ không quá non hay quá già để gói bánh. Nếu lá non thì khó bóc, còn lá già thì bánh bị cứng và không đủ thơm. Xong xuôi, bánh được xếp vào khay và hấp cách thủy trong khoảng 30-45 phút là chín.
Cá mắm ruộng
Khi lúa trĩu bông, cũng là lúc tháo nước để bắt cá. Cá chép ruộng thịt săn chắc, thơm ngọt được chế biến cùng nếp cái hoa vàng và các nguyên liệu truyền thống của địa phương mới tạo thành một món ăn đặc sản.
Hũ cá mắm ruộng của đồng bào Tày ở Chiêm Hoá (Ảnh sưu tầm)
Cá được mổ sạch, để ráo nước và xát muối, ướp riềng giã nhỏ cùng hành củ thái lát mỏng, trộn đều rồi cho vào hũ, mùa hè ủ chừng từ ba đến năm ngày, mùa đông thì lâu hơn. Mổ cá phải thật khéo để không làm vỡ mật nếu không mắm sẽ bị đắng. Gạo nếp xôi lên, để nguội, trộn với men rượu rồi ủ kín trong sọt lót lá chuối, khi món xôi nếp đã lên men thơm như rượu thì đem trộn với cá đã ướp. Gia vị không thể thiếu là lá trầu và lá cơm đỏ thái chỉ. Tất cả được trộn đều rồi cho vào hũ, đậy thật kín. Chừng mười tháng sau thì mắm chín kỹ cả thịt lẫn xương. Mắm ngon phải có mầu đỏ tía, dậy mùi thơm nức, cá còn nguyên con, hạt xôi đều không bị nát.
Thưởng thức mắm cá ruộng có nhiều cách, ngoài dùng để chấm các loại thịt, rau hoặc để chấm cơm lam, bà con còn dùng để xào với trám om đã bỏ hột sẽ tạo ra một món ăn mang hương vị rất độc đáo của đồng bào Tày, tỉnh Tuyên Quang.
Cá bống suối
Món cá nướng gập nổi danh xưa nay tuy thật sự ngon bùi, thơm vị núi rừng nhưng ăn vẫn hơi khô, còn món cá nướng vùi thì thơm xênh xang và mềm ngọt nước. Vậy nên với nhiều người sành thưởng thức thì cá nướng vùi mới thực sự là món mang đậm hương miền rừng, nguyên vẹn vị ẩm thực quê bản.
Cá bống suối có thể chế biến làm nhiều món rất ngon (Ảnh sưu tầm)
Khi mở đùm cá ra thì mọi thứ đều còn phải đang nóng hôi hổi, có làn hơi mỏng bốc lên thoang thoảng ảo mờ như sương mai, mùi thơm sực nức tỏa ra thấm thấu vào người, nhìn đã thấy thích, hít hà đã thấy thèm và láu táu muốn nhón tay nhúp ăn thử ngay lập tức…
Thịt trâu khô
Thịt trâu ở vùng núi Tuyên Quang nổi tiếng là sạch, thịt thơm và ngọt. Khi trâu được mổ, lấy nguyên thịt nạc, dần mềm và ướp với tỏi, gừng, ớt, sả và những gia vị khác rồi đem sấy trên than củi hoặc hun khói trên gác bếp. Vị cay cay của ớt trộn với vị cay nóng của gừng và thơm thơm của mắc khén tạo nên hương vị đực trưng của thịt trâu khô Tây Bắc.
Thịt trâu khô (trâu gác bếp) là món ăn dân dã rất ngon (Ảnh sưu tầm)
Từ lâu món đặc sản này đã được mọi người ưa chuộng và thường xuyên tìm kiếm. Thịt trâu khô được yêu thích không chỉ vì hương vị thơm ngon mà còn vì nét văn hóa được hội tụ trong đó
Thịt chua
Thịt chua là món ăn dân dã, mang đậm màu sắc ẩm thực dân tộc Tày ở Nà Hang, Để làm nên món thịt lợn chua ngon và đặc trưng. Đòi hỏi đôi bàn tay khéo léo và sự tỷ mỷ của người dân để được thành phẩm ưng ý. Trong quá trình chế biến phải chọn được loại thịt ngon – Thịt ba chỉ, phần thịt có cả nạc lẫn mỡ (ngon nhất là thịt của lợn đen “lợn lửng” lợn được người dân trong bản nuôi thả rông.
Thịt chua Na Hang (Ảnh sưu tầm)
Với thịt được ướp lâu hơn, khi ăn, gỡ từng miếng thịt, gạt bỏ phần cơm nguội, thịt đã săn lại, màu nhạt, có độ giòn của mỡ, dai sần sật của bì và thịt nạc. Ăn kèm với lá lốt để thưởng thức hết độ ngon của thịt chua, hương thơm của lá lốt xanh, quyện thành một hương vị rất khó quên.
Bánh đúc Đà Vị
Món bánh đúc của đồng bào Tày ở chợ Đà Vị từ lâu đã trở nên quen thuộc với người dân và du khách. Với những đặc trưng riêng có như mùi vị, độ giòn… bánh đúc nơi đây đã được nhiều người yêu thích và nhớ mãi.
Người dân bán bánh đúc ở chợ Đà Vị (Ảnh: Baotuyenquang.com.vn)
Cái bùi của lạc rang, cùng với vị gạo thanh thanh và đậm đà, beo béo của tương hòa vào nhau vừa dung dị, vừa gợi nhiều cảm xúc về một vùng đất rất đỗi bình yên. Bánh đúc được sắt ra từng miếng nhỏ chấm với tương hay nước chấm gia vị của người Tày thì ngon tuyệt. Mỗi phiên chợ, các bà, các chị làm bánh đúc lãi từ 300 nghìn đồng trở lên và vui hơn khi được thực khách khen ngon. Món bánh đúc ở chợ Đà Vị đã trở thành nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu ở địa phương, để mỗi du khách nếu đã thưởng thức một lần sẽ nhớ mãi và mong trở lại lần sau.
Lợn tên lửa
Nuôi lợn đen dưới tán rừng đã trở thành một nghề truyền thống bao đời nay của người Tày, Dao ở các điểm vùng cao của Tuyên Quang như Lâm Bình, Na Hang. Khi mà vì nhu cầu của thị trường, nhiều người lựa chọn chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, bán công nghiệp thì hầu hết người dân ở các xã vẫn giữ được nghề nuôi lợn đen theo hình thức chăn thả tự nhiên. Chẳng thế mà mỗi dịp Tết đến, khách “sành ăn” ở dưới xuôi phải tìm cho được lợn đen ở Lâm Bình mới thôi…
Do hình dáng thon nhỏ nên giống lợn này có tên gọi là lợn tên lửa (Ảnh sưu tầm)
Rau dớn Na Hang
Bà con dân tộc Tày Na Hang gọi rau dớn là Phéc cút. Loại cây chỉ có ở vùng núi cao, nơi ngọn nguồn của sông, suối và thường mọc ở bờ suối, khe suối, nơi có độ ẩm ướt cao. Từ rau dớn người ta có thể chế biến nhiều món ăn dân dã như rau dớn luộc, nộm rau dớn, rau dớn xào tỏi, canh rau dớn.
Nộm rau dớn (Ảnh sưu tầm)
Rau Dớn nhìn qua thấy giống như cây dương xỉ, thân to, tán lá rộng, mặt lá màu xanh nhẵn. Loại cây này chỉ mọc ở bờ suối, khe suối, nơi có độ ẩm cao. Món nộm rau Dớn là một trong những đặc sản chờ bạn thưởng thức khi đến Na Hang. Nộm rau Dớn có mùi thơm đặc trưng của các loại rau, vị bùi của rau dớn, vị chua ngọt xen lẫn một chút vị cay của ớt rất ngon và khác biệt.
Cơm lam
Cơm lam được làm từ gạo nếp nương, thân cây tre gai và nước giếng. Muốn có ống cơm lam ngon, người làm phải chọn cây tre bánh tẻ; gạo nếp phải chọn loại nếp trắng, dẻo, thơm đem ngâm, vo sạch rồi trộn cùng một chút muối cho đậm đà rồi cho vào ống.
Cơm lam nướng có thể tìm thấy ở khắp các vùng núi phía Bắc (Ảnh sưu tầm)
Khi cho gạo vào không được nén chặt, đổ nước cách miệng ống 2 – 4 cm rồi lấy lá dong hoặc lá chuối nắp thật chặt. Tuy nhiên, việc nướng cơm lam lại là một nghệ thuật không phải ai cũng làm được.
Hạt dổi
Chẳng phải vô cớ mà người ta gọi hạt dổi là “vàng đen”. Hạt dổi là thứ gia vị cho nước chấm, ướp thực phẩm. Những ai đã từng thưởng thức hương thơm ngào ngạt của hạt dổi, được nếm những món ăn có ướp gia vị hạt dổi sẽ thấy chúng quý giá đến nhường nào. Với độ che phủ rừng lớn, nhiều cánh rừng nguyên sinh, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp nên rừng ở tỉnh ta có nhiều cây dổi.
Hạt dổi Na Hang là loại rất thơm ngon (Ảnh sưu tầm)
Người ta vẫn “kháo” nhau rằng gỗ dổi chỉ xếp sau gỗ đinh và trên cả gỗ lát. Chính vì giá trị của gỗ dổi chắc, bền, vân hoa, màu sắc đẹp nên được cánh thợ mộc săn lùng để đóng các món đồ quý. Từ đó, dổi bị khai thác bừa bãi, số lượng suy giảm nghiêm trọng. Không chỉ cho gỗ tốt, đẹp, cây dổi còn cho hạt có giá trị.
Măng rừng
Tuyên Quang có trên 60% diện tích được che phủ bởi rừng. Bởi vậy, măng là một thực phẩm quen thuộc của người dân nơi đây. Tuỳ từng loại măng, như măng tre, măng mai, măng hóp, măng giang, măng nứa, măng vàu, người ta có thể xào, nấu, luộc, nướng, nhồi thịt, ủ chua… tạo thành rất nhiều món ngon hấp dẫn.
Măng có thể sử dụng làm nhiều món ăn nhưng măng nhồi thịt là ngon lạ nhất (Ảnh sưu tầm)
Được thu hoạch nhiều vào mùa mưa khoảng tháng 7-8, măng là thực phẩm ưa thích của người dân bản địa ở Na Hang và được chế biến làm nhiều món ngon như măng nhồi thịt, canh măng hay măng khô.
Vịt bầu Minh Hương
Vịt bầu Minh Hương, còn gọi là vịt suối, là một giống vịt bầu bản địa có từ lâu đời ở xã Minh Hương, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Thịt vịt khi chế biến có tiếng hương vị thơm ngon, đặc trưng, được nhiều người biết đến. Nhờ vịt bơi lội tại suối, thức ăn của vịt chủ yếu là thóc, chuối, ốc, coi voi… nên thịt vịt bầu Minh Hương rất thơm ngon, nhiều dinh dưỡng.
Vịt bầu Minh Hương được công nhận là đặc sản Tuyên Quang (Ảnh sưu tầm)
Măng khô Tuyên Quang
Măng là một loại thực phẩm thông dụng trong các bữa ăn của người dân Việt Nam. Măng tươi đã quý, măng khô lại càng quý hơn. Măng khô có thể chế biến được nhiều loại món ăn như xào, hầm xương, nấu bún ngan, nấu vịt. Theo y học cổ truyền, măng có vị ngọt pha chút đắng và có tính hàn. Chính vì vậy măng khô có công công dụng hóa đàm hạ khí, thanh nhiệt. Măng cũng thường được dùng làm thức ăn và làm thuốc cho những người bị cảm mạo, ăn uống chậm tiêu, ho do phế nhiệt.
Măng khô Tuyên Quang thường được bán ở các phiên chợ vùng cao ở Na Hang. Phiên chợ này ở Lâm Bình, Lăng Can, Na Hang. Chợ thường họp vào thứ 5 và chủ nhật hàng tuần tại xã Thượng Lâm. Măng có độ mềm, giòn, thớ thịt dày, đặc, chắc và không có xơ. Măng Tuyên Quang có thể được chế biến thành nhiều món ăn phổ biến như măng xào, măng nhồi thịt, măng luộc…
Đặc sản Tuyên Quang làm quà
Rượu ngô Na Hang
Văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam được thể hiện khá đậm nét qua các món ăn truyền thống, nhưng ở mỗi dân tộc lại có cách thức chế biến các món ăn, đồ uống cho riêng mình. Người Tày ở huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang có vốn văn hóa ẩm thực truyền thống khá phong phú với nhiều món ăn, thức uống đặc trưng của miền rừng núi đã để lại dấu ấn sâu đậm cho những người dù chỉ một lần được thưởng thức, đặc biệt là rượu ngô, thứ rượu nổi tiếng thơm ngon của miền đất này.
Rượu ngô Na Hang là đặc sản của huyện vùng cao này (Ảnh sưu tầm)
Trong quá trình nấu rượu, người Tày thường kiêng không cho người đi đỡ đẻ hay người đi dự đám ma nhìn và sờ vào rượu. Phụ nữ sau khi sinh con 40 ngày mới được tiếp xúc với rượu. Khi nấu rượu họ thường cho sẵn một con dao cũ vào bếp lửa nếu có người mà kỵ vô tình đến xem hoặc hỏi chuyện thì rút dao ra cắm vào cạnh bếp, đây là cách làm mẹo để rượu không bị hỏng. Để có được thứ rượu thơm, ngon nổi tiếng, người Tày ở huyện Na Hang phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu cơ bản trên.
Uống rượu ngô Na Hang ta có thể cảm nhận được hết sự vất vả, sự nhọc nhằn và cả tấm chân tình của con người nơi đây đã gửi gắm trong từng giọt rượu. Sở dĩ rượu ngô Na Hang không chỉ nổi tiếng mà người dân luôn tâm huyết với nghề bởi nó như một thứ di sản văn hóa, nay đã trở thành sản phẩm du lịch không thể thiếu, phần nào làm nên niềm tự hào của người dân Na Hang nói riêng và người dân Tuyên Quang nói chung.
Bánh gai Chiêm Hoá
Món bánh này thường được làm vào dịp lễ tết mùa Vu Lan. Dịp này, người dân muốn tự tay làm những chiếc bánh gai thơm ngon để dâng lên tổ tiên để thể hiện tấm lòng thành kính của mình. Bánh gai Chiêm Hoá được làm từ lá gai, gạo nếp, đỗ xanh, dừa tơi, mứt bí, hạt sen, dầu chuối, mỡ lợn. Muốn có chiếc bánh thơm ngon phải chọn gạo nếp cái hoa vàng, vỏ sạch rồi ngâm với nước lạnh để qua đêm, sau đó để ráo nước và xay thành bột.
Bánh gai Chiêm Hoá (Ảnh sưu tầm)
Lá gai phơi khô tước bỏ hết gân, thái nhỏ đem luộc rồi vắt kiệt nước xay nhuyễn trộn với bột và mật mía để làm vỏ bánh. Hương vị của lá gai quyện vào mùi thơm của gạo nếp với lá chuối khô tạo nên hương vị đặc trưng của bánh gai Chiêm Hoá.
Cũng giống như các món bánh gai khác, bánh gai tại Chiêm Hóa cũng có màu đen đặc trưng của lá gai. Khi ăn sẽ có vị ngọt thanh của lá gai và vị bùi bùi, ngọt ngọt của đường phèn và nhân đậu. Đặc biệt, phần nhân còn có thêm thịt mỡ nên khi ăn sẽ rất ngậy và bùi. Tất cả đã tạo nên một hương vị rất đặc biệt cho món bánh gai Chiêm Hóa.
Khi ăn bạn sẽ không hề cảm thấy lẫn lộn với bất cứ món bánh gai nào ở nơi khác. Bởi hương vị của bánh gai nơi đây rất khác biệt. Nó sẽ bạn khi ăn cũng sẽ không cảm thấy bị ngấy. Bởi vị ngọt thanh vừa phải khi ăn sẽ không cảm thấy bị khé cổ. Đây là vị bánh khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được hương vị đậu xanh hòa quyện vào dừa tươi ăn sẽ không bị ngấy mà ngược lại rất bùi. Mùi thơm của lá gai sẽ khiến bạn cảm thấy ngất ngây.
Cam sành Hàm Yên
Người dân trong vùng quen gọi cam Hàm Yên là cam làng Mường. Cam sành Hàm Yên được trồng trên vùng núi cao, hấp thụ được những tinh hoa từ đất, gió nắng và nguồn nước đầu nguồn mát lành tinh khiết. Mang lại vị ngọt, hương thơm, quả mọng nước đặc trưng riêng có. Hương và vị khác hẳn Cam sành được trồng tại vùng khác.
Cam sành Hàm Yên (Ảnh sưu tầm)
Cam sành Hàm Yên đã được công nhận là 1 trong 50 trái cây đặc sản Việt Nam, lọt top 10 thương hiệu – nhãn hiệu nổi tiếng, trở thành cây trồng chủ lực, cây làm giàu cho người dân địa phương
Hồng không hạt Xuân Vân
Khi thời tiết bắt đầu sang thu, đặc biệt gần kề Tết trung thu truyền thống, cũng là lúc người dân xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang lại hối hả bước vào mùa thu hoạch hồng. Quả Hồng không hạt Xuân Vân có hình dáng thuôn dài, từ cuống đến giữa quả có từ 3 đến 4 rãnh dọc kéo dài. Khi mới hái, hồng to bằng quả trứng gà so, khoảng 15 – 16 quả/kg, vỏ quả bóng có màu xanh xen lẫn với ánh vàng. Quả có 4 tai dính liền nên rất khó rụng, quả hoàn toàn không hạt, mặt cắt ngang của quả có hình hoa thị từ 8 đến 10 cánh rất đều nhau, màu hơi đỏ tạo sự tương phản với màu thịt quả.
Hồng không hạt Xuân Vân (Ảnh sưu tầm)
Hồng Xuân Vân không cần xử lý hóa chất, sau khi ngâm qua nước sạch trong 2 ngày 2 đêm là có thể ăn được. Thịt quả có màu đỏ vàng da cam đến vàng đậm bắt mắt, mịn và có rất ít đốm đen, lại có hạt đường nên khi ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt sắc, giòn và mùi thơm đặc trưng của giống hồng bản địa. Cũng chính vì vậy mà hồng Xuân Vân được khách gần xa trong ngoài tỉnh biết đến.
Lê Hồng Thái
Nhắc đến Hồng Thái, người ta không thể không nói đến cây lê, loài cây đặc sản có từ lâu đời trên mảnh đất này. Lê ở Hồng Thái vốn có vị chua chát, chỉ người ăn quen mới cảm nhận hết được hương vị đậm đà.
Chè Bát Tiên Tuyên Quang
Chè Bát Tiên là giống trà được nhập từ Đài Loan và lai tạo với giống trà địa phương. chè Bát Tiên có cọng trà nhỏ và chắc hơn các loại trà khác, cánh trà cũng có tuyết nhưng không nhiều. Bát Tiên là tám vị tiên cực kỳ nổi tiếng trong thần thoại Trung Quốc và được nhiều người tôn sùng. Hình ảnh của tám vị tiên được thể hiện trên nhiều sản phẩm khác nhau như tranh vẽ (bát tiên quá hải), tượng điêu khắc, đồ gốm và ngay cả trà cũng được đặt tên theo các vị tiên này.
Chè Bát Tiên (Ảnh sưu tầm)
Trà Bát Tiên vị thanh, hương thơm dịu mát,uống nhiều có tác dụng làm mát cơ thể, nhuận tràng, chống đầy chướng, giúp cơ thể trao đổi chất nhanh, đào thải calo thừa, giảm cân…Đặc biệt trà Bát Tiên giúp làn da mịn, đẹp cho phụ nữ.
Lịch trình phượt Tuyên Quang
Để thuận lợi cho các bạn trong hành trình khám phá du lịch Tuyên Quang, mình sẽ gợi ý cho các bạn một số lịch trình đi phượt Tuyên Quang kết hợp một số địa điểm du lịch kế cận.
Hà Nội – Sơn Dương – Tuyên Quang – Na Hang – Hà Nội
Lịch trình này các bạn có thể đi tham quan một số địa điểm du lịch nổi tiếng ở Tuyên Quang, khám phá thuỷ điện Na Hang, trekking khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang. Nếu không muốn trekking các bạn có thể bỏ qua ngày thứ 3 và về thẳng Hà Nội
Ngày 1: Hà Nội – Tam Đảo – Sơn Dương
Từ Hà Nội các bạn có thể di chuyển theo hướng QL 2 rồi ghé qua tranh thủ du lịch Tam Đảo, sau đó tiếp tục di chuyển lên Sơn Dương tham qua khu di tích Tân Trào, tối ngủ tại thị trấn Sơn Dương.
Ngày 2: Sơn Dương – Tuyên Quang
Từ Sơn Dương các bạn di chuyển đến Tp Tuyên Quang. Tham quan Bảo tàng Tuyên Quang, thành nhà Mạc (chỗ này thực ra giờ còn mỗi một đoạn thành sau tu bổ, xấu vô cùng) rồi đi Suối khoáng Mỹ Lâm.
Từ suối khoáng Mỹ Lâm các bạn di chuyển lên huyện vùng cao Na Hang, tham quan hồ thuỷ điện Na Hang, một số địa danh du lịch ở Na Hang. Tối các bạn nghỉ ở Thị trấn Na Hang
Ngày 3: Na Hang – Trekking Bản Bung – Na Hang – Tuyên Quang
Từ thị trấn Na Hang các bạn đi vào xã Thanh Tương, hỏi đường lên Bản Bung. Từ trung tâm xã lên tới Bản Bung khoảng 8-9km các bạn có thể trekking.
Trên Bản Bung không có dịch vụ homestay hay bất cứ gì khác nên nếu muốn lên đây các bạn cần mang theo lều, thức ăn. Đây chỉ là một bản của người Tày với khoảng hơn 40 nóc nhà và nằm trong lòng của khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang. Thời gian trekking sẽ mất khoảng 2-3 tiếng tuỳ vào tốc độ của mỗi người
Ngày 4: Bản Bung – Na Hang – Hà Nội
Ngày này dậy sớm thu dọn đồ đạc rồi từ Bản Bung xuống lại xã Thanh Tương, di chuyển từ Na Hang về Hà Nội.
Hà Nội – Lâm Bình – Na Hang – Ba Bể – Hà Nội
Ngày 1: Hà Nội – Chiêm Hoá – Lâm Bình (265km)
Sáng từ Hà Nội đi Chiêm Hoá, dừng ở đây chơi Thác Bản Ba và nghỉ ngơi ăn trưa. Chiều tiếp tục khởi hành đi Thượng Lâm (Lâm Bình)
Tối nghỉ ngơi ở Lâm Bình, ở đây có các dịch vụ homestay nên các bạn có thể thuê để nghỉ ngơi, tổ chức các hoạt động giao lưu.
Ngày 2: Lâm Bình – Na Hang – Ba Bể
Sáng có thể dậy sớm tham quan các làng bản của người dân ở Thượng Lâm, ghé thăm chùa Phúc Lâm (Phúc Lâm Tự). Tiếp theo từ Lâm Bình quay lại thị trấn Na Hang thuê thuyền đi ngắm lòng hồ thuỷ điện Na Hang
Tại đây các bạn có thể hợp đồng thuê thuyền đi dọc sông Năng, sang hồ Ba Bể và nghỉ lại. Đi đường này sẽ mất khoảng 5 tiếng để có thể đến Ba Bể và phải chuyển 2 lần thuyền, lần 1 ở Na Hang và lần 2 khi đã đến Ba Bể. Kết thúc lần đi thuyền thứ nhất sẽ phải di chuyển khoảng 1km đường bộ để đến bến thuyền thứ 2 trong lòng hồ Ba Bể. Tối nghỉ ngơi và ngủ ở Ba Bể
Ngày 3: Ba Bể – Hà Nội
Sáng dậy đi tham quan khám phá Ba Bể, ở Ba Bể hiện giờ có các dịch vụ homestay nên ở cũng khá thích. Trưa từ Ba Bể quay ngược về Hà Nội kết thúc chuyến đi
Hà Nội – Na Hang – Hà Giang – Đồng Văn – Mèo Vạc – Bảo Lạc – Nguyên Bình – Ba Bể – Hà Nội
Lịch trình này sẽ đưa các bạn đi một vòng các tỉnh Đông Bắc, từ Tuyên Quang sang Hà Giang, vòng qua Cao Bằng, trên đường về Hà Nội sẽ ghé qua Bắc Kạn. Lịch trình khá dài nên cần có thời gian mới có thể đi hết được
Ngày 1: Hà Nội – Na Hang – Thượng Lâm
Từ Hà Nội các bạn đi Tuyên Quang rồi đi chuyển lên Na Hang, dừng chơi ở Thuỷ điện Tuyên Quang, thuê thuyền đi ngắm lòng hồ thuỷ điện. Tiếp tục di chuyển lên xã Thượng Lâm của huyện Lâm Bình, tối nghỉ ngơi tại các homestay của người dân địa phương tại đây. Ngày này quãng đường hơi dài nên các bạn phải di chuyển sớm để lên tới Thượng Lâm không bị quá muộn.
Ngày 2: Thượng Lâm- Tp Hà Giang – Quản Bạ – Yên Minh
Sáng từ Thượng Lâm của huyện Lâm Bình các bạn đi theo đường 185 ra Vị Xuyên rồi thẳng QL 2 đi lên Tp Hà Giang. Tiếp tục từ đây các bạn di chuyển đến Quản Bạ, Yên Minh. Tối nghỉ tại Yên Minh để hôm sau tiếp tục di chuyển.
Ngày 3: Yên Minh – Đồng Văn
Ngày này quãng đường không dài, các bạn có thời gian thư thả để khám phá du lịch Đồng Văn. Từ Yên Minh đi lên Đồng Văn, đoạn đường này là một trong những đoạn đường vô cùng đẹp ở Hà Giang, các bạn cứ từ từ mà thưởng thức. Tiếp tục đi Dinh Vương, Cột cờ Lũng Cú, tối về ngủ tại phố cổ Đồng Văn.
Ngày 4: Đồng Văn – Mèo Vạc – Mã Pì Lèng – Bảo Lạc – Tĩnh Túc – Ba Bể
Chặng này cũng khá dài, khoảng 250km. Từ Đồng Văn các bạn sẽ đi qua Mã Pì Lèng, một trong tứ đại đỉnh đèo miền Bắc. Tiếp theo sẽ qua đến Mèo Vạc, các bạn đi theo đường Niêm Sơn để đi Bảo Lâm, Bảo Lạc qua Tĩnh Túc rồi đi theo đường 212 về Ba Bể. Tối nghỉ ngơi tại Ba Bể (nên nghỉ homestay)
Ngày 5: Ở lại Ba Bể nghỉ ngơi
Sáng dậy sớm đi tham quan khu vực Vườn Quốc gia Ba Bể, khám phá một số địa điểm du lịch hấp dẫn ở Ba Bể, thưởng thức các món ăn ngon ở Ba Bể.
Ngày 6: Ba Bể – Thái Nguyên – Hà Nội
Ngày cuối cùng từ Ba Bể về Hà Nội theo quốc lộ 3, các bạn có thể dành thời gian để ghé qua Thái Nguyên để tham quan một số địa điểm du lịch ở đây rồi sau đó về Hà Nội, kết thúc hành trình khám phá Đông Bắc trong 6 ngày.
Discussion about this post