Yên Bái là một tỉnh miền núi, nằm giữa vùng Tây Bắc – Đông Bắc và Trung du Bắc Bộ. Yên Bái nổi tiếng với những thửa ruộng bậc thang trải dài khắp triền đồi, vào mùa lúa chín hay mùa nước đổ, Yên Bái được ví như “chốn thần tiên” thu hút bao dân phượt. Kinh nghiệm phượt Yên Bái của RuudNguyen.com sẽ gợi ý cho bạn tất tần tật điểm ăn chơi thú vị tại đây nhé.
Nắng chiều ở Yên Bái (Ảnh – bi_tabu)
Giới thiệu chung về Yên Bái
Du lịch Yên Bái vào thời gian nào?
Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc. Phía đông bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Trung tâm của tỉnh là thành phố Yên Bái, cách thủ đô Hà Nội khoảng 180 km.
Yên Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp: hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ…
Yên Bái có nhiều thắng cảnh đẹp và hấp dẫn (Ảnh sưu tầm)
Tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện để kết hợp phát triển du lịch sinh thái.
Một điều tuyệt vời khi mà khí hậu ở Yên Bái được chia ra làm 4 mùa rõ rệt: Xuân – Hạ – Thu – Đông, mỗi mùa lại mang một vẻ cuốn hút riêng, tuy vậy, vẫn có những đoạn thời gian mà Yên Bái đặc biệt xinh đẹp để ghé thăm nhé.
Tháng 1 – 3: Đây là dịp để gần gũi với đời sống muôn sắc màu của người dân Yên Bái qua các trò chơi truyền thống như ném pao, kéo co, đua mảng, đua ngựa,… trong bầu không khí se se và mát lành của mùa xuân.
Tháng 5 – 6: Mùa nước đổ. Sẽ gây khó khăn cho dân phượt một chút vì những cơn mưa mùa hè sẽ thi nhau mà trút nhưng tuy vậy, trải nghiệm được ngắm những giọt nước trời lóng lánh trên ruộng bậc thang thì cũng rất hay ho mà, nhỉ?
Tháng 9 – 10: Mùa lúa chín. Lúc này, cảnh quan Yên Bái được phủ một sắc vàng rực rỡ, tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp trải dài trên núi đồi. Đây là thời gian đáng ghé Yên Bái nhất đó nha.
Tháng 12: Team săn mây điểm danh rồi cùng lên Yên Bái mùa này nhé! Sẽ không khó để bắt gặp cảnh tượng núi rừng chìm trong mây mù giăng lối đầy ma mị và hùng vĩ.
Hướng dẫn đi tới Yên Bái
Từ Hà Nội có 2 đường chính là QL32 và QL70. Nếu đi oto các bạn có thể lựa chọn đi đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai ra ở nút sang TP Yên Bái để tiết kiệm thời gian di chuyển.
Quốc lộ 32, con đường dẫn thẳng lên Nghĩa Lộ, Mù Cang Chải (Ảnh: Hoàng Thái)
Xe khách đi Yên Bái có rất nhiều và chạy thường xuyên từ bến xe Mỹ Đình, với điểm dừng cuối ở bến xe Yên Bái. Thời gian di chuyển khoảng hơn 2 giờ đồng hồ.
Lưu trú ở Yên Bái
Khách sạn nhà nghỉ ở Yên Bái
Hệ thống khách sạn nhà nghỉ Yên Bái được đánh giá là khá đầy đủ tiện nghi cùng số lương đa dạng. Tại các địa điểm du lịch nổi tiếng như Mù Cang Chải, Nghĩa Lộ, Yên Bình số lượng khách sạn,nhà nghỉ, homestay đủ để đáp ứng cho số lượng lớn khách du lịch. Ngay cả những nơi du lịch chưa quá phát triển, không khó để các bạn có thể tìm được một khách sạn hoặc nhà nghỉ có chất lượng tương đối tốt, giá thành phù hợp để làm nơi lưu trú trong chuyến đi của mình.
Homestay ở Yên Bái
Dịch vụ Homestay ở Yên Bái được hình thành từ đầu những năm 2006 ở bản Đêu, xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ, sau đó là thôn Ngòi Tu của xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, gần đây là bản Kim Nọi, thị trấn Mù Căng Chải. Trải qua sự phát triển không ngừng của ngành du lịch thì đến nay dịch vụ homestay liên tục gia tăng ở các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh.
Mù Cang Chải và Yên Bình hiện là nơi có nhiều homestay nhất ở Yên Bái (Ảnh sưu tầm)
Các địa điểm du lịch ở Yên Bái
Nổi tiếng với những thửa ruộng bậc thang Mù Cang Chải, những cánh đồng giữa thung lũng Mường Lò, đèo Khau Phạ, suối nướng nóng Nghĩa Lộ, chè San tuyết Suối Giang… Ngoài ra, bạn có thể đi sâu vào các bảng làng sâu để khám phá cuộc sống của người dân tộc Mông, Nùng, Thái, Dao, v.v.
Mù Cang Chải
Mù Cang Chải là một huyện vùng cao nằm phía tây tỉnh Yên Bái. Từ Hà Nội, du khách di chuyển khoảng 280 km và đi qua đèo Khau Phạ, một trong những con đèo hiểm trở và đẹp nhất Tây Bắc, là tới nơi.
Mù Cang Chải là địa điểm đã quá nổi tiếng với những bạn ưa xê dịch (Ảnh sưu tầm)
Mỗi mùa tại Mù Cang Chải đều mang vẻ đẹp riêng. Tuy nhiên, mùa lúa chín tại Mù Cang Chải mang một vẻ đẹp của bức tranh thuỷ mạc khiến du khách không thể rời mắt. Từ tháng 9 đến giữa tháng 10 là mùa lúa chín, lúc này Mù Cang Chải tràn ngập trong một màu vàng óng của lúa chín.
Những thửa ruộng bậc thang của người Mông đã từng được tờ tạp chí danh tiếng của Mỹ National Geographic đưa tin và những bức ảnh về mùa lúa chín ở Mù Cang Chải đã lọt vào top những bức ảnh đẹp nhất thế giới.
Xem thêm: Các địa điểm đẹp khi du lịch Mù Cang Chải
Nghĩa Lộ
Nghĩa Lộ là một thị xã nằm ở khu vực phía Tây của tỉnh Yên Bái. Diện tích tự nhiên của Nghĩa Lộ rơi vào khoảng gần 30 km2. Phía Bắc, phía Đông và Phía Nam của Nghĩa Lộ giáp với huyện Văn Chấn còn phía Tây giáp với huyện Trạm Tấu. So với những địa phương khác của tỉnh Yên Bái thì Nghĩa Lộ có địa hình tương đối bằng phẳng với độ cao trung bình chỉ khoảng 250m so với mực nước biển.
Cổng chào Nghĩa Lộ (Ảnh sưu tầm)
Du lịch Nghĩa Lộ từ đã được nhiều người biết đến với những điểm du lịch hấp dẫn bởi nét đặc sắc trong văn hóa cũng như truyền thống cách mạng của các dân tộc sinh sống trên địa bàn như: Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu di tích lịch sử cách mạng Căng và Đồn Nghĩa Lộ, chợ Mường Lò, du lịch sinh thái ở xã Nghĩa Lợi, Nghĩa An…
Bản Sà Rèn
Cách thành phố Yên Bái 90km về phía Tây, một bản làng nằm dọc ven bờ suối Thia, quanh năm róc rách bởi dòng Nậm Thia xanh mát, các bạn chỉ mất khoảng 2 tiếng đi xe ô tô là có thể đến tham quan, trải nghiệm điểm du lịch cộng đồng bản Sà Rèn, một nơi hoàn toàn chỉ có người Thái đen sinh sống và vẫn còn giữ được những nét văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo.
Bản Sà Rèn được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến bởi nơi đây vẫn nguyên vẹn vẻ đẹp thiên nhiên nguyên sơ với những hàng tre gắn với cuộc sống của người Thái đen được giữ gìn dọc ven bờ suối, những nếp nhà sàn cổ, những con người dân tộc miền sơn cước đôn hậu, thân thiện, mến khách.
Bản Chao Hạ
Nằm cách thành phố Yên Bái 80km, theo quốc lộ 32 sẽ đưa chân du khách đến với thung lũng Mường Lò Nghĩa Lộ- một trong bốn vựa lúa lớn của vùng Tây Bắc, với lịch sử hình thành lâu đời cùng 17 dân tộc anh em chung sống trong đó người Thái chiếm đến 90%.
Từ năm 2012, dưới sự đi đầu tiên phong của một vài người dân, Chao Hạ đã chuyển mình nghiêng theo hướng làm du lịch cộng đồng. Đến nay, bản đã là một trong những địa điểm đặc biệt yêu thích của khách du lịch nước ngoài. Đến bản Chao Hạ để du xuân ngắm cảnh núi rừng, trải nghiệm cuộc sống kiểu mới, thấy được hòa mình với thiên nhiên, với cộng đồng dân cư và thưởng thức những “món lạ” nơi đây
Bản Đêu
Bản Đêu thuộc xã Nghĩa An là địa điểm tuyệt vời để các bạn trẻ tìm hiểu nét truyền thống của người Thái. Ghé thăm bản Đêu bạn có thể hòa mình cùng cuộc sống của người dân nơi đây có thể trải nghiệm đi xe đạp khoảng hơn 30km tới suối Nậm Đông để tắm hay di chuyển tới Trạm Tấu. Những hoạt động du lịch ở bản Đều chủ yếu do người dân tự làm hoặc có hướng dẫn viên du lịch.
Cánh đồng Mường Lò
Nếu như Tú Lệ, Mù Cang Chải đã nổi tiếng, thì cái tên Mường Lò (Nghĩa Lộ) dường như rất ít người biết đến. Trên trục quốc lộ 32 đến với Mù Cang Chải, bạn sẽ phải qua thị xã Nghĩa Lộ, đây là trung tâm kinh tế xã hội của toàn vùng Mường Lò ngày nay.
Mường Lò là cánh đồng rộng thứ 2 miền Bắc, sau Mường Thanh ở Điện Biên (Ảnh sưu tầm)
Nằm cách thành phố Yên Bái chừng 80 km về phía tây, thung lũng Mường Lò được ví như một lòng chảo khổng lồ bao trọn toàn bộ thị xã Nghĩa Lộ và một vài xã của huyện Văn Chấn.
Là vùng đất của lúa gạo, Mường Lò từ lâu đã được lưu truyền trong câu ca ngợi ca về bốn vựa lúa lớn nhất Tây Bắc: “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”. Trong đó Mường Thanh (Điện Biên) là lớn nhất, Mường Lò là cánh đồng lúa lớn thứ hai của Tây Bắc, sau đó mới đến Mường Than (Lai Châu) và cuối cùng là Mường Tấc (Sơn La).
Di tích Căng Đồn Nghĩa Lộ
Khu di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ, nơi đã diễn ra những trận chiến đấu ác liệt và chiến thắng năm 1952, giải phóng Nghĩa Lộ. Khu di tích Căng – Đồn nằm trên trục chính đường Điện Biên (Quốc lộ 32). Đây là điểm trung tâm của thị xã Nghĩa Lộ và vùng lòng chảo cánh đồng Mường Lò.
Khu di tích lịch sử căng đồn Nghĩa Lộ (Ảnh sưu tầm)
Văn Chấn
Suối Giàng
Suối Giàng là một xã vùng cao của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, nằm cách trung tâm huyện lỵ Văn Chấn 12 km về phía Bắc, với diện tích tự nhiên là 5.922 héc-ta, bao gồm 4 tộc người cùng cư trú là người Mông, Kinh, Dao, Tày, trong đó người Mông chiếm 98,5%, còn lại các dân tộc khác chiếm gần 2%.
Do vậy, các giá trị văn hoá dân gian truyền thống của đồng bào Mông nơi đây còn lưu giữ được nhiều yếu tố cổ truyền độc đáo. Đây chính là sự khác biệt, tạo cho Suối Giàng có tiềm năng để trở thành khu du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái của vùng phía Tây nói riêng và tỉnh Yên Bái nói chung.
Suối Giàng là nơi sản sinh ra loại chè shan tuyết cùng tên vô cùng nổi tiếng (Ảnh sưu tầm)
Suối Giàng nằm ở độ cao trên 1.371 mét so với mực nước biển nên nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm. Nhiệt độ trung bình thường thấp hơn khu vực huyện Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ từ 80C – 90C. Một ngày ở Suối Giàng, ta có thể cảm nhận rõ được bốn mùa trong năm. Ban đêm, trời se lạnh; sáng ra, mây mờ che phủ bồng bềnh khắp các bản làng, sườn núi; buổi trưa, trời trong xanh, lộng gió và buổi chiều, nắng vàng trải mượt như rót mật. Bởi thế, khí hậu ở Suối Giàng có thể sánh với Sa Pa, Đà Lạt.
Không chỉ có khí hậu mát mẻ, Suối Giàng còn có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những ruộng lúa bậc thang cong cong theo vạt núi, phóng tầm mắt xuống biển lúa vàng óng vùng Mường Lò, vựa lúa lớn thứ hai ở vùng Tây Bắc và một thị xã Nghĩa Lộ đầy năng động. Cùng với cảnh sắc thiên nhiên là những nét văn hóa độc đáo của người Mông, người Dao, người Thái còn được bảo tồn ở Văn Chấn.
Du khách đến đây không chỉ phiêu du dưới tán rừng nguyên sinh với phong cảnh kỳ thú mà còn có thể được cùng hái chè, sao chè rồi uống chè với những cô gái Mông mến khách, hoặc cùng chiêm nghiệm và hòa vào không khí bí ẩn, linh thiêng trong Lễ cấp sắc của người Dao, rộn ràng trong những ngày hội xuân, ấm áp trong Lễ mừng cơm mới của người Thái…
Đèo Lũng Lô
Đèo Lũng Lô, nằm ở ranh giới giữa tỉnh Yên Bái và tỉnh Sơn La. Nơi đây chứa đựng huyền thoại về những đoàn quân ra mặt trận hay đoàn dân công hỏa tuyến cùng đường đi hiểm trở đầy thử thách.
Với chiều dài 15km, 57 năm về trước, đèo Lũng Lô là đoạn đường huyết mạch nối liền với đường 6 để chuyển quân và tiếp tế lương thực phục vụ kháng chiến, đánh tan cứ điểm Điện Biên Phủ. Cũng tại khu vực này, để ngăn chặn bước tiến của quân ta, địch đã ném xuống đây hơn 2.000 quả bom với mật độ trung bình mỗi ngày gần 12.000 tấn bom.
Đèo Lũng Lô (Ảnh sưu tầm)
Trong bài thơ “Hoan Hô Chiến Sỹ Điện Biên” ra đời sau khi miền Bắc được giải phóng, Tố Hữu đã viết: Dốc Pha đin, chị gánh, anh thồ, Đèo Lũng lô, anh hò, chị hát. Gần đỉnh con đèo là điểm giáp ranh của cả 3 tính Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La.
Bản Hốc
Cách thủ đô Hà Nội gần 200km, Bản Hốc nằm ngay trung tâm của huyện Văn Chấn. Với khoảng gần 80% là dân tộc Thái, sống chủ yếu bằng làm nông nghiệp. Nơi đây còn lưu giữ khá nguyên vẹn những nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Thái. Bản Hốc cách trung tâm huyện Văn Chấn khoảng 1,5km về phía Tây Bắc.
Nằm bên con suối Nhì thơ mộng và hùng vĩ, thôn Bản Hốc, xã Sơn Thịnh (Văn Chấn) có cảnh quan thiên nhiên giao hòa, xứ sở của những điệu xòe, điệu khắp, điệu then nhẹ nhanh, uyển chuyển.
Nhà máy thủy điện Thác Bà
Là một công trình trọng điểm trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất của nước ta (1960 – 1965). Là nền móng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Nhà máy thủy điện Thác Bà trên dòng sông Chảy (Ảnh sưu tầm)
Từ khi tiếp nhận và vận hành sản xuất. Nhà máy đã nhanh chóng ổn định tổ chức, tiếp thu nhanh nhạy kỹ thuật quản lý vận hành để độc lập công tác. Công suất và sản lượng điện phát ra của nhà máy trong thời kỳ chiến tranh và sau khi hoà bình lập lại chiếm 70% sản lượng điện của hệ thống điện miền Bắc, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội.
Đền Mẫu Thác Bà
Đền Mẫu Thác Bà nằm trên núi Hoàng Thi ở độ cao 70m so với chân núi. Đền có diện tích 1.800m2 quay theo hướng Đông Bắc dựa lưng vào núi, nhìn ra sông Chảy. Vượt qua 365 bậc đá, đến trước cửa sân đền, phóng tầm mắt ra xa có thể bao quát toàn cảnh công trình thủy điện đầu tiên của cả nước và ngắm nhìn một vùng trời nước mênh mông, hữu tình của hồ Thác Bà.
Đền Mẫu Thác Bà (Ảnh sưu tầm)
Theo truyền thuyết vào đời các vua Hùng Vương thứ XVIII có một nàng công chúa tên gọi là Minh Đạt được vua cha cắt cử trông coi vùng Trôi Thuỷ (Vùng sông Chảy ngày nay) để dạy nhân dân khai hoang, trồng lúa dệt vải, phát triển nghề chài lưới đánh bắt cá tôm, trồng cây gây rừng để hình thành nên Châu Thu, Châu Vật, Phủ Bình trù phú. Khi bà mất, để nhớ ơn đến công lao to lớn của bà, nhân dân đã lập Đền thờ Mẫu ngay trên ngọn thác tại xã Đạo Ngạn, nay là thị trấn Thác Bà. Hàng năm công chúa thường hiển linh tạo phúc làm cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, giúp nhân dân vượt thác vượt ghềnh giao lưu buôn bán ngày càng phát triển.
Truyền thuyết còn kể lại rằng dưới thời nhà Trần, tướng quân Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật trong một lần xuất quân đánh quân Nguyên Mông xâm lược, khi qua đền Ông và nghĩa quân đã vào đền kính bái và được Thánh Mẫu giúp đỡ dẹp yên giặc thù. Khi đoàn quân thắng trận trở về, tướng quân Chiêu Văn Vương đã ban tặng Mỹ Tự Thác Bà tối linh từ.
Dưới các triều đại vua đã ban 6 sắc phong cho đền. Từ đó đã trở thành thông lệ, cứ đến ngày mùng 9 tháng Giêng, ngày Rằm tháng 4, ngày 17/7 và Rằm tháng Chạp là ngày lễ tri ân Thánh Mẫu. Trong đó, ngày mùng 9 tháng Giêng là ngày lễ hội chính để trăm họ tụ họp, mở hội rước Mẫu, dâng lên Thánh Mẫu lễ vật hoa tươi, trái ngọt, chè kho và rước cá để tỏ lòng tôn kính và cầu Thánh Mẫu phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nhà nhà no đủ.
Hồ Thác Bà
Nằm ở phía Tây Bắc tổ quốc, hồ Thác Bà của tỉnh Yên Bái, nơi được ví như “Hạ Long trên núi” là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam hình thành khi xây dựng Nhà máy thuỷ điện Thác Bà.
Hồ Thác Bà (Ảnh sưu tầm)
Nằm trong địa phận hai huyện Yên Bình và Lục Yên, Hồ Thác Bà rộng gần 23.500 ha với hơn 1.300 đảo xanh lớn nhỏ soi bóng dưới mặt nước cùng hệ thống hang động đẹp ẩn sâu trong lòng những dãy núi đá vôi. Chính sự kỳ bí ấy tạo cho Thác Bà một vẻ đẹp lung linh huyền hoặc nhưng lại rất thân thiện, hữu tình. Đi thuyền trên hồ Thác Bà, bạn không chỉ cảm nhận được bầu không khí mát lành từ nước, từ gió hồ Thác mà còn được hoà mình cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn mình vào mênh mông trời nước, điệp trùng núi đảo tưởng chừng như vô tận.
Hồ Thác Bà là một trong những điểm đến độc đáo của của tỉnh Yên Bái. Tuy là hồ nhân tạo nhưng cảnh quan của hồ là sự hài hòa của thiên nhiên với bàn tay con người. Một điểm đến xanh, thú vị chắc chắn sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cho bạn trong kỳ nghỉ tới. Bỏ túi ngay kinh nghiệm du lịch hồ Thác Bà để có một chuyến đi suôn sẻ. Hồ rất yên ả, không khí trong lành, xanh, mát cùng với những vạt rừng xanh mượt trùng điệp nhấp nhô tới bất tận. Giữa hồ có động Mông Sơn là nơi chính quyền tỉnh Yên Bái sống trong cuộc chiến tranh đế quốc Mỹ các nhà khảo cổ của người Việt đã tìm ra những dấu vết của các di tích lịch sử như: Đại Cại, hang Ma mút, chùa São, núi Vua Áo Đen…
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch hồ Thác Bà
Bản văn hóa Ngòi Tu
Làng du lịch cộng đồng Ngòi Tu là một địa điểm thuộc xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, Tỉnh Yên Bái. Làng Ngòi Tu nằm ven hồ thủy điện Thác Bà, cách Trung tâm xã Vũ Linh khoảng 4 km về phía Tây Bắc. Cách thị trấn Thác Bà khoảng 16 km về phía Bắc. Cách trung tâm huyện Yên Bình khoảng 35 km (đường bộ) về phía Đông Bắc.
Làng văn hóa Ngòi Tu (Ảnh sưu tầm)
Đến với Ngòi Tu ngoài việc được thưởng thức những món ăn dân dẫ bạn sẽ còn được hòa mình vào phong cảnh hữu tình, say lòng cùng những làn điệu dân ca, những điệu múa : làm chay, xúc tép, rước dâu truyền thống … Với những bạn thích lang thang khám phát còn có thể tham gia trekking núi Yến, núi Cao Biền hoặc đạp xe khắp bản để khám phá văn hóa của người Dao.
Trạm Tấu
Tà Sì Láng
Tà Sì Láng là một xã thuộc huyện Trạm Tấu, Yên Bái. Phía bắc giáp Bản Mù, phía Tây giáp Phù Yên (Sơn La), phía Đông và Nam giáp huyện Văn Chấn. Dân cư ở đây 100% là người H’Mong, sinh sống chủ yếu bằng nghề làm nương.
Đường vào Tà Sì Láng những năm trước đây (Ảnh sưu tầm)
Tà Si Láng được biết đến là địa phương xa xôi và khó khăn nhất của huyện Trạm Tấu với giao thông cách trở, địa hình chia cắt, do vậy mà đời sống của một bộ phận người dân đặc biệt là các hộ nghèo còn rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Độ dốc của các con đường nơi đây cũng thuộc dạng khủng, từ 15-20%.
Háng Tề Chơ – Làng Nhì
Háng Tề Chơ (Háng Đề Chơ) là bản xa nhất của xã Làng Nhì, Trạm Tấu, Yên Bái. Đây là một bản tập trung khoảng vài chục hộ dân người Mông Đen, bản cũng sở hữu ngọn thác cùng tên Háng Tề Chơ, được coi là một ngọn thác đẹp trong danh sách các điểm đến của Tây Bắc. Háng Tề Chơ là một điểm tham quan cực thú vị cũng là đệ nhất thác của khu vực Tây Bắc nói chung.
Thác nước ở trong Háng Tề Chơ (Ảnh sưu tầm)
Bạn có thể tới đây vào mọi thời điểm trong năm đều đẹp nhưng do đường đi nguy hiểm, hiểm trở có những đoạn chỉ chừng có gang tay nên thời điểm thích hợp nhất để phượt Háng Tề Chơ là vào các tháng mùa hè. Thời tiết nắng nhưng khô ráo thuận lợi cho việc di chuyển tới chân thác cũng như phóng tầm mắt thu toàn cảnh núi non hùng vĩ.
Bản Mù
Là một xã vùng cao của huyện Trạm Tấu, cách trung tâm huyện khoảng 12km. Nằm trên độ cao khoảng hơn 1000m so với mặt nước biển, Bản Mù quanh năm sương giăng kín lối với những ngôi nhà của đồng bào nằm lạc lõng trên những sườn núi. Di tích lịch sử Kế Khấu Ly thuộc xã Bản Mù, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng.
Cánh đồng xã Bản Mù, Trạm Tấu (Ảnh sưu tầm)
Di tích nằm ở Phía Tây Nam của tỉnh Yên Bái, cách thành phố Yên Bái 125 km (theo Quốc lộ 32 và 133), cách huyện lỵ Trạm Tấu 7 km về phía Đông Nam. Từ thành phố Yên Bái chỉ có 1 con đường duy nhất đến Di tích là qua cầu Yên Bái theo Quốc lộ 32 tới thị xã Nghĩa Lộ, rẽ trái theo hướng Tây Nam, đi tiếp 31 km nữa trên Quốc lộ 133 tới thị trấn Trạm Tấu, từ Trạm Tấu đi tiếp theo hướng Đông Nam 7 km nữa là tới Di tích.
Bản Cu Vai
Nằm trên một đỉnh núi cao, bản Cu Vai thuộc xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái nơi được coi là điểm đến độc đáo vô cùng đẹp đối với những du khách thích trải nghiệm thử thách, yêu thiên nhiên và cảnh đẹp.
Bản Cu Vai thuộc xã Xà Hồ (Ảnh sưu tầm)
Từ trung tâm xã Xà Hồ du khách sẽ phải vượt qua quãng đường chừng 8 km để lên tới bản Cu Vai. Cu Vai là bản định cư mới từ năm 2013 (Cu Vai theo tiếng Thái là dây mây vắt ngang trời) nằm cheo leo trên một ngọn núi với gần 50 hộ dân có không gian đẹp mang nét nguyên sơ, bình dị của cảnh vật và sự mộc mạc của con người.
Suối khoáng nóng khu 5
Cách trung tâm Trạm Tấu chưa đầy 3km về phía Tây Bắc, khu các suối nước nóng này tọa lạc tại khu 5, thị trấn Trạm Tấu, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái.
Khu suối khoáng nóng (Ảnh sưu tầm)
Nguồn suối khoáng nóng này hoàn toàn tự nhiên, nhiệt độ trung bình khoảng 50 độ C, chảy luồn lách qua từng khe đá và được trữ lại ở mỗi ghềnh đá cuội, tạo thành hai ao tắm với hai nhiệt độ khác nhau tùy theo nhu cầu của du khách.
Do sử hữu nguồn nước dồi dào cùng với thiết kế của hệ thống tràn bể liên hoàn cho nên nước trong hồ luôn được giữ sạch sẽ chứ không hề bị ngả màu như nhiều suối nóng khác. Từ trên bờ, du khách có thể thấy rõ từng viên đá cuội to – nhỏ với nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau dưới đáy hồ, trên mặt nước luôn luôn xuất hiện vầng khí nóng vờn quanh không tản.
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu với tổng diện tích tự nhiên là 16.950 ha, nằm trên địa bàn 4 xã Nà Hẩu, Đại Sơn, Mở Vàng và Phong Dụ Thượng (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái), có hệ sinh thái rừng tự nhiên phong phú, đa dạng mang tính điển hình của vùng núi phía Bắc Việt Nam với nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Đây cũng được coi là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng cho những ai yêu thích thiên nhiên, ưa thích sự mạo hiểm và muốn tìm hiểu, khám phá nét văn hóa truyền thống của đồng bào Mông ở xã Nà Hẩu.
Mây trời Nà Hẩu (Ảnh sưu tầm)
Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu của huyện Văn Yên được biết đến là nơi lưu giữ được một hệ sinh thái động, thực vật phong phú và đa dạng. Từ trung tâm thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên qua cầu Mậu A bắc qua sông Hồng theo tuyến đường từ xã An Thịnh đi xã Đại Sơn khoảng 30 km về hướng Tây Nam, vượt qua dốc Ba Khuy vắt ngang sườn núi, du khách sẽ đến xã Nà Hẩu, một xã có 100% đồng bào Mông sinh sống.
Tới Nà Hẩu, mọi ồn ào của phố xá như được trút bỏ sau lưng. Vẻ đẹp của những cánh rừng già thâm nghiêm, mang tới sự hấp dẫn kỳ lạ đối với du khách. Những tán rừng nguyên sinh mang lại cho Khu Bảo tồn một bầu không khí thật trong lành, tinh khiết và đưa con người trở nên gần gũi với thiên nhiên hơn bao giờ hết.
Nằm ở độ cao trung bình từ 600 – 700 m so với mực nước biển, nơi cao nhất 1.800m, nơi thấp nhất 200m nên địa hình của Nà Hẩu bị chia cắt mạnh, tạo thành rất nhiều khe suối và có nhiều hang động, thác nước đẹp như thác Bản Tát, thác Suối Tiên, hang Dơi…
Đền Mẫu Đông Cuông
Đền Đông Cuông là cụm Di tích gồm 4 điểm: Ngoài Đền chính còn có Miếu Cô, Miếu Cậu và Miếu Đức Ông (Miếu Đức Ông tọa bên hữu ngạn sông Hồng đối diện với ngôi Đền Chính về hướng Nam cách 150m đường chim bay thuộc cụm di tích Đền Đông Cuông).
Đền Mẫu Đông Cuông thu hút được khá nhiều du khách về lễ (Ảnh sưu tầm)
Đền có từ lâu đời, qua sử sách thư tịch được biết Đền có muộn nhất vào đời Lê, được phát triển từ một Miếu cổ (thuộc trung tâm trại Quy Hóa thời Trần); Các thư tịch cổ như Kiến văn tiểu lục, Đại Nam thống nhất chí đều có ghi chép về ngôi Đền Đông Cuông này. Đền và khu vực đền có liên quan đến Đền Ngọc Tháp và Đền Hùng (Phú Thọ).
Đền Đông Cuông được xây dựng trên một thế đất rộng. Tọa sát bên đôi bờ sông hồng, xung quanh là đồng ruộng và núi rừng bao bọc, không giống những ngôi đền khác trường tồn giữa chốn phồn hoa, cửa nhà san sát mà Đền Đông Cuông “Đông Quang” đã được người xưa chọn phương cắm hướng ngay cấp sa bồi của thế đất vùng “Thượng lưu châu thổ sông Hồng”.
Thế đất binh sự – phên dậu nhưng không xa lìa thế nhân, chốn này tĩnh tại nhưng không hề âm u hiu quạnh. Vì vậy ngôi đền ấy mãi mãi sáng trong như đúng tên gọi “Đông Quang” cổ nhân đã đặt. Vậy nên từ xa đã khiến du khách nhận ngay được bóng dáng cây Đa khoảng 800 tuổi cạnh ngôi đền tuy cổ mà không cũ, tuy hiện đại mà mang tính dân tộc cao.
Về kết cấu kiến trúc: Theo dân tộc Tày Khao gọi là đình Đông Cuông với chức năng thờ Mẫu và vị Đại Vương, người Tày cho là Thành hoàng làng là chính, không kiêm nhiệm nhiều chức năng khác và không tập trung thể hiện mỹ thuật. Trang hoàng lộng lẫy, mà chỉ là những vân mây, sóng nước, điểm xuyến đôi hình hoa lá hoa dây. Đền Đuông Cuông có kết cấu hình chữ đinh gồm hai tòa đại bái và hậu cung cấm.
Hồ Chóp Dù
Hồ Chóp Dù thuộc địa phận xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, là một hồ nước rất đẹp, thơ mộng và yên tĩnh. Với địa thế nằm ngang lưng núi, hồ Chóp Dù trải rộng 16 ha với cảnh quan sinh thái đa dạng, nhiều ngách nhỏ xen lẫn với các khu rừng tự nhiên bao quanh. Nước hồ quanh năm trong xanh, phẳng lặng soi bóng những hàng cây xanh ngắt bốn mùa.
Cái tên Chóp Dù gắn với nhiều câu chuyện linh thiêng về những cây đa cổ thụ và Ao Vua huyền bí, gắn với những chiến công hiển hách của quân và dân Yên Bái trong lịch sử đấu tranh giữ nước. Theo các cụ cao niên trong xã kể lại, vào thời Pháp thuộc, lực lượng vũ trang Yên Bái đã bắn rơi máy bay của địch khi bọn chúng nhảy dù xuống, đồng thời cũng bắt sống được quân địch tại đỉnh núi này. Và từ đó người ta đặt tên cho núi là Chóp Dù. Đến năm 1978, do nhu cầu tưới tiêu tại địa phương chính quyền đã cho xây dựng hồ nhân tạo, nước trong hồ được dẫn thẳng từ núi Chóp Dù xuống chính vì thế người dân lấy tên núi đặt tên cho hồ. Theo thời gian, hồ Chóp Dù không chỉ phục vụ cho nhu cầu tười tiêu của nhân dân đại phương mà còn là một cảnh quan sinh thái đẹp với nhiều nét chấm phá hữu tình, thơ mộng.
Chiến khu Vần
Chiến khu Vần là một vùng đất khá rộng, nằm ở phía Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc Văn Chấn có cự ly dài từ Bắc xuống Nam là 23km và từ Đông sang Tây 18km. Lịch sử vùng chiến khu trải qua thời gian, địa danh, địa giới có nhiều thay đổi, trước đây vùng đất này thuộc huyện Văn Chấn, nay thuộc huyện Trấn Yên.
Chiến khu Vần là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia (Ảnh sưu tầm)
Hồ Đầm Hậu
Cách thành phố Yên Bái chỉ vẻn vẹn 10km về phía Nam, ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên, Hồ Đầm Hậu còn được gọi là Hồ 99 ngách ngay cạnh nút giao trên đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai.
Hồ Đầm Hậu hay còn gọi là hồ 99 ngách, là một hồ nước nhân tạo được hình thành do quá trình ke bờ, đắp đập xây dựng hệ thống thủy lợi, phục vụ tưới tiêu tại thôn Đức Quân, xã Minh Quân, huyện Trấn Yên.
Cái tên “99 ngách” được tạo bởi việc đắp đập dâng nước nhấn chìm những đồi núi trong vùng đất rộng hàng chục hécta. Nhìn từ trên cao xuống hồ 99 ngách khiến chúng ta liên tưởng tới hình ảnh một con bạch tuộc. Hồ Đầm Hậu quanh năm nước tràn đầy, ngoài việc cung cấp nước tưới tiêu cấy lúa và các hoa màu trên địa bàn xã, hồ Đầm Hậu còn cung cấp một nguồn lợi thủy sản lớn với nhiều loại cá như: trắm, mè, gáy, vược, rô phi… với nhiều loài thủy sinh rong, tảo. Ngoài việc đánh bắt thủy sản trong hồ, người dân trong xã còn thả lồng nuôi cá, các đảo đất nổi trên hồ được trồng cây nguyên liệu giấy.
Chợ đá quý Lục Yên
Chợ đá Lục Yên chỉ họp trong khoảng thời gian vài tiếng đồng hồ vào buổi sáng hàng ngày. Tùy mùa theo thời tiết mà phiên chợ diễn ra sớm hay muộn, nhưng có thể áng chừng từ sáu giờ sáng người bán hàng bắt đầu đến chợ.
Đá quý ở đây được bày bán như rau ngoài chợ (Ảnh sưu tầm)
Điều đặc biệt và cũng là khác biệt ở chợ đá quý Lục Yên so với các khu chợ khác đó là, cảnh mua bán diễn ra khá nhẹ nhàng chứ không hề “chợ búa” một chút nào. Không hề có cảnh tranh giành hay cãi cọ để giữ khách.
Từ người mua đến kẻ bán đều khá nhẹ nhàng, thoải mái. Các sản phẩm được bày biện gọn gàng, công khai ngay trên mặt bàn mà không cần bất kỳ phương pháp bảo vệ gì. Tại đây, khách có thể thoải mái chạm vào sản phẩm để xem xét, mặc cả; không thích có thể sang hàng bên cạnh mua mà không sợ bị lườm nguýt, càu nhàu.
Phần lớn những người mua bán ở chợ đã nằm lòng về nhau mấy mươi năm nay, giữa họ không chỉ có tình “làm ăn” mà còn là tình thân, nên chuyện giành giật khách là tối kỵ. Nếu chót vi phạm vào “lệ làng” này còn có thể bị tẩy chay hết đường làm ăn chứ chẳng chơi. Ở chợ cũng hầu như không có chuyện trộm cắp vì có người lạ là dân bản địa phát hiện ngay.
Chùa tháp Hắc Y – Đền Đại Cại
Quần thể di tích đền Ðại Cại thuộc xã Tân Lĩnh, Lục Yên, cách thành phố Yên Bái khoảng hơn 80km, bao gồm đình Bến Lăn, chùa tháp đất nung Hắc Y, đền Ðại Cại và thành nhà Bầu bao bọc quanh bãi đua ngựa huấn luyện kỵ binh.
Đền Đại Cại xưa có tên cổ là đền Ta Cại, ngày nay nằm trên địa phận xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Tính đến nay, đền đã trải qua ba lần di chuyển. Trước thời Tự Đức, đền Đại Cại tọa lạc trên gò Đại Mạo, cạnh miếu Hắc Y, bên bờ phải của cửa ngòi Đại Cại, sau đó chuyển sang gò Đền đối diện với gò Đại Mạo. Đến thời Khải Định, đền được rời đến vị trí hiện nay.
Chùa tháp đất nung Hắc Y hay còn gọi là miếu Hắc Y, tọa lạc trên đỉnh đồi Hắc Y thuộc xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên. Chùa mang kiến trúc độc đáo của thời Trần. Trên đồi Hắc Y có tháp Hắc Y, thành đất, bãi quần ngựa,…là những dấu ấn một thời oanh liệt trong lịch sử đấu tranh giữ nước.
Đền Suối Tiên
Theo sử sách, đền Suối Tiên xây dựng khoảng năm 1928 – 1929. Di tích đền Suối Tiên, với khuôn viên gần 6000m2, nằm trong không gian đậm nét văn hóa dân gian các dân tộc Lục Yên. Di tích Đền Suối Tiên là tài sản văn hóa vô giá của dân tộc, là thành quả lao động sáng tạo, là bằng chứng quan trọng, là “cuốn sử sống” phản ánh tinh thần lao động sản xuất, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và là “địa chỉ đỏ” để giáo dục truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường của nhân dân ta. Với giá trị và ý nghĩa đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định công nhận đền suối Tiên là di tích Lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Các món ăn ngon ở Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh vùng núi tiếp giáp Tây Bắc và Đông Bắc nước ta. Ngoài danh thắng ruộng bậc thang Mù Cang Chải, Yên Bái còn khá nhiều đặc sản mà chắc chắn chưa nhiều bạn được thưởng thức. Nhắc tới Yên Bái người ta lại không khỏi xao xuyến khi nhớ về những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh; những biển mây trắng ôm xòa lòng người hay chỉ đơn giản là hương vị núi rừng mộc mạc.
Nếu có dịp đến với mảnh đất cửa ngõ của Tây Bắc này, bạn đừng quên bớt chút thời gian để khám phá, tìm hiểu cũng như thưởng thức các đặc sản này. Chắc chắn là bạn sẽ có những ấn tượng rất khó quên.
Nếp Tú Lệ
Nếp Tú Lệ được xếp vào một trong những loại nếp ngon nhất nước ta, đồ lên thành xôi có vị thơm ngọt và dẻo, rời từng hạt chứ không dính chặt lấy nhau như đa phần các loại nếp thường khác. Nếp Tú Lệ còn gọi là nếp Tan Lả (theo tiếng của người Thái) là loại gạo nếp đặc sản chỉ có ở thung lũng Tú Lệ, Văn Chấn, Yên Bái.
Gạo nếp Tú Lệ (Ảnh sưu tầm)
Nếp Tú Lệ được xếp vào một trong những loại nếp ngon nhất nước ta, đồ lên thành xôi có vị thơm ngọt và dẻo, rời từng hạt chứ không dính chặt lấy nhau như đa phần các loại nếp thường khác. Nếp Tú Lệ còn gọi là nếp Tan Lả (theo tiếng của người Thái) là loại gạo nếp đặc sản chỉ có ở thung lũng Tú Lệ, Văn Chấn, Yên Bái.
Gạo nếp ở đây rất ngon, dẻo thơm nổi tiếng là vì cánh đồng lúa được tưới mát bởi con suối đầu nguồn Mường Lùng, lúa được gieo trồng trên một nền đất hiếm, tầng phong hóa mỏng, nồng độ kali cao, thung lũng Tú Lệ lại nằm gọn giữa ba ngọn núi cao là Khau Phạ, Khau Thán và Khau Song nên biên độ dao động nhiệt độ trong ngày lớn, thời gian đêm dài hơn ngày.
Đây là yếu tố quan trọng làm tăng mạch tinh bột Aminôtécpin, quyết định sự dẻo thơm của hạt gạo. Thêm nữa là cấu tạo của đất Tú Lệ tơi xốp, dễ thấm nước và khí hậu trong lành, thuận lợi cho cây lúa phát triển tự nhiên nên cây nếp Tan Lả trồng xuống bén rễ xanh non mơn mởn. Chính vì vậy nếp Tan Tú Lệ được coi là gạo sạch và có mùi thơm rất lạ. Điều đặc biệt hơn nữa là không nơi nào trồng được loại lúa này mà cho thứ gạo thơm, dẻo như vùng thung lũng Tú Lệ.
Với những du khách đã từng đến Tú Lệ được thưởng thức các món ăn được chế biến từ gạo nếp Tú Lệ như: Cốm, cháo cốm vịt, xôi nếp ngũ sắc, cơm lam… được các cô gái Thái thổi hồn, nhấp chén rượu nếp Tú lệ do những đôi tay ngà mời lâng lâng trong tiếng “Khắp mời lẩu” – Hát mời rượu, say trong điệu xoè nồng hậu mới thấm hơn cái hồn của xứ Thái và ý nghĩa sâu xa của câu ca:
“Mường Lò gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về”
Xôi ngũ sắc
Từ bao đời nay, Mường Lò – Yên Bái được mệnh danh là “lòng chảo” của các tỉnh Tây Bắc. Mỗi dịp du khách về đây thăm quan, du lịch họ không chỉ được ngắm cảnh đẹp hoang sơ, trữ tình của núi rừng mà còn là dịp để du khách có cơ hội được thưởng thức các món ăn ngon dân dã nổi tiếng như: Cơm lam, thắng cố, lạp sườn… Đặc biệt, một món ăn với hương vị ngọt ngào, có hình thức lạ mắt khiến du khách không thể nào bỏ qua đó là xôi ngũ sắc.
Xôi ngũ sắc ở Nghĩa Lộ (Ảnh sưu tầm)
Xôi ngũ sắc Yên Bái được làm từ các nguyên liệu khá đặc biệt. Ngay từ cách lựa chọn nguyên liệu, người ta cũng phải chú ý thật kỹ càng, phải lựa chọn được loại gạo ngon thì xôi mới dẻo, thơm (gạo Tú Lệ; hạt to). Ngoài ra, để tạo màu cho xôi người ta dùng các loại lá rừng (lá cẩm…) hoặc củ nghệ, quả gấc (cơm tím; cơm đỏ; cơm đen; cơm cam; cơm vàng; cơm trắng).
Theo những người lớn tuổi ở Mường Lò kể lại, muốn xôi ngũ sắc thật thơm, ngon và có hương vị ngọt ngào thì phải lấy được nước suối nguồn để đồ xôi. Để màu xôi không lẫn vào nhau, khi đồ xôi người ta để lần lượt từng màu gạo lên nhau. Khi đồ xôi phải trông liên tục để giữ cho lửa cháy đều và nếu không muốn xôi ngậy có thể cho một lớp mỡ gà mỏng lên xôi.
Đối với người dân Mường Lò – Yên Bái, xôi ngũ sắc mang ý nghĩa rất đặc biệt, xôi ngũ sắc tượng trưng cho thuyết âm dương ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Nếu xôi màu đỏ, mang ý nghĩa tượng trưng cho khát vọng cuộc sống; xôi màu tím, tượng trưng cho đất đai trù phú, quý giá; xôi màu vàng tượng trưng cho sự ấm no, phồn thịnh; Còn xôi màu xanh, tượng trưng cho cảnh sắc tuyệt đẹp của núi rừng đại ngàn Tây Bắc, của bầu trời xanh bao la; xôi trắng, tượng trưng cho tình yêu trong trắng, thủy chung…
Năm 2008, xôi ngũ sắc đã được đưa vào kỷ lục Guinness Việt Nam với mâm xôi lớn nhất Việt Nam có trọng lượng 1,3 tấn, đường kính 2,8m, dày 30cm. Ngày nay, xôi ngũ sắc Yên Bái thường được làm vào các dịp lễ hội lớn như: Lễ hội Lồng Tồng (cầu mùa), Tết Nguyên Đán, Tết Xíp Xí (14/7) …
Mắc khén
Mắc khén Yên Bái hay còn có một cái tên gọi khác là hạt tiêu rừng, loại gia vị này khiến cho người nào lần đầu nhìn thấy sẽ liên tưởng ngay đến cây hồ tiêu dại được mọc rất nhiều trong rừng. Tuy nhiên không phải vậy đây là một loại cây thân gỗ rất lớn mọc trong rừng từ Mắc trong tên của loại gia vị này có nghĩa là quả từ Khén có nghĩa là cây lớn.
Mắc khén là gia vị quan trọng trong nhiều món ăn ở Tây Bắc (Ảnh sưu tầm)
Loại cây này được mọc rất nhiều trong rừng chúng có kích cỡ lớn thuộc họ hồi có tinh dầu và hương rất thơm. Có thể nói Mắc khén Yên Bái trở thành một loại cây huyền thoại cung cấp một loại gia vị tuyệt ngon đậm đà không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của người dân nơi đây.
Muồm muỗm rang Mường Lò
Mỗi khi mùa lúa chín rộ, ấy là lúc bắt đầu mùa muồm muỗm. Thoạt trông, muồm muỗm có vẻ giống con cào cào, nhưng nhìn kỹ thấy mình nó thon, cánh nhỏ gọn hơn nhiều. Người ta bảo muồm muỗm thường ăn các loại trứng sâu, muỗi… trong các ruộng lúa nên được xếp là một loại “thiên địch”, là bạn của người nông dân.
Muồm muỗm rang giòn, thơm phức và béo ngậy (Ảnh sưu tầm)
Khâu sơ chế muồm muỗm cũng không đơn giản. “Vặt cánh, bẻ chân, ngắt đầu, rút ruột” là 4 khâu cơ bản để tạo nên hình hài một chú muồm muỗm trên bàn nhậu. Trải qua 4 khâu, muồm muỗm được rửa sạch, để ráo nước rồi cho vào chảo.
Đầu tiên, muồm muỗm được om với nước măng chua trên bếp lửa liu riu. Cạn nước, cho ngay mỡ (hoặc dầu ăn) vào, đảo đều tay trên bếp to lửa. Khi nào nghe tiếng nổ lách tách tức là muồm muỗm đã chín giòn. Nêm nếm gia vị vừa đủ cùng với mì chính, một chút ớt tươi và đảo nhanh tay; cuối cùng, cho lá chanh thái chỉ nhỏ vào, đảo đều chín tới lá chanh là bắc chảo ra được.
Dế chiên giòn
Tháng 7 âm lịch khi nhãn Mường Lò chín rộ cũng là lúc những con dế trở nên mập mạp, bóng bẩy, béo ngậy và món dế trở thành món chủ đạo trong các quán. Người ta bắt dế bằng nhiều cách và không mấy khó khăn như đào hang, đổ nước; tối đến trẻ em lại loanh quanh dọc phố bắt dế ven các cột đèn cao áp. Ở đây bắt dế không khó và vùng Mường Lò dế rất nhiều nên giá dế ở chợ Mường Lò cũng không đắt, khoảng vài nghìn đồng đã có ngay một lạng; ấy mà một lạng dế là khéo đủ vừa được cả đĩa 2 người ăn.
Cứ đến Nghĩa Lộ vào mùa lúa chín, kiểu gì cũng có món này (Ảnh sưu tầm)
Về miền Tây Yên Bái mùa ngâu, nếm giọt rượu nếp nồng nàn và thưởng thức món Dế mèn rán giòn rụm, tan nơi đầu lưỡi để ngậm ngùi và để nhớ:
Bao giờ cho đến ngày xưa
Để nghe tiếng võng đong đưa của bà
Để dầm nắng dưới đầm hoa
Rình con Dế cụ thò ra thụt vào…
Cắn từng miếng Dế giòn tan và cảm nhận vị thơm, ngon ngọt, bùi béo có thể sẽ khiến thực khách quên khuấy luôn việc mình đã từng cảm thấy e ngại khi nghe tên món ăn này. Nếu có dịp về Yên Bái, du khách đừng quên ghé thăm Mường Lò, dừng chân thưởng thức món ngon Dế mèn thơm ngon, bổ dưỡng mang đậm sắc thái đồng bào dân tộc nơi đây.
Bánh chưng đen Mường Lò
Bánh chưng đen Mường Lò của người Thái không chỉ hấp dẫn bởi màu sắc đặc biệt mà còn có hương vị tuyệt vời. Những ai đã thưởng thức bánh sẽ không thể quên được độ dẻo dẻo, vị ngọt ngọt, béo béo quyện lại với nhau tạo nên 1 món ngon khó thể cưỡng lại.
Bánh chưng đen ở Mường Lò (Ảnh sưu tầm)
Giống như bánh chưng xanh của người Kinh, bánh chưng đen Mường Lò của người Thái cũng được cha truyền con nối qua nhiều thế hệ. Cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, được thưởng thức miếng bánh chưng đen, mùi gạo quyện với than núc nác, hoa cây vừng đen như có cảm giác thưởng thức cả mùi cỏ cây, ruộng đồng, đất trời và thiên nhiên miền Tây Yên Bái.
Chiếc bánh được tạo ra với ý nghĩa thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Món bánh đặc sản này cũng không thể thiếu trên mâm cỗ cúng tổ tiên, đất trời mỗi khi xuân về.
Ngày trước, loại bánh này chỉ xuất hiện tại những ngày lễ, Tết, giỗ chạp… nhưng hiện nay nó đã trở thành món ăn phổ biến mà bất cứ ai khi tới đây đều muốn mua về làm quà tặng người thân, bạn bè hay thưởng thức ngay tại chỗ.
Rau dớn Mường Lò
Bà con dân tộc Thái gọi rau dớn là “phác pút”. Rau dớn không có ở đồng bằng, chỉ có ở vùng núi – nơi bờ suối, bờ khe, dưới các tán rừng thấp nơi có độ ẩm ướt cao. Đối với nhiều tộc người, rau dớn là “vua” loại rau, nó chẳng những giúp cải thiện chất lượng bữa ăn hằng ngày mà còn là món đặc sản để đãi khách trong các lễ hội. Mỗi lần tổ chức lễ hội của gia đình hay cộng đồng, người ta tranh thủ vào rừng hái rau dớn để chế biến thức ăn. Vì loại rau này nhanh bị dập nát nên được bà con hái đến đâu sử dụng đến đó, bảo đảm rau luôn tươi xanh, chất lượng.
Rau dớn là món ăn chỉ có thể tìm được ở các tỉnh vùng núi phía Bắc (Ảnh sưu tầm)
Rau dớn có thể chế biến thành nhiều món. Để làm món rau dớn xào, một gia vị không thể thiếu đó là tỏi. Tỏi giã dập, phi thơm rồi cho rau dớn vào đảo đều năm phút và bắc xuống nêm đường, bột ngọt, tương ớt, hạt tiêu, nước chanh tươi, lạc rang giã nhỏ…
Còn món nộm rau dớn luôn làm hài lòng những thực khách khó tính nhất. Làm món nộm không khó, rau dớn được lấy phần ngọn non, các lá bánh tẻ, rửa sạch. Luộc rau bằng cách đun nước cho thật sôi, to lửa rồi bỏ rau vào, lật lên khi nước vừa sôi thì vớt ra, để vào rổ cho róc nước.
Ruốc tôm Mường Lò
Từ nguyên liệu tôm nõm, thịt lợn thăn, dầu thực vật và các loại gia vị của người dân tộc nơi đây và không thể thiếu kinh nghiệm truyền thống của đồng bào Tây bắc đã tạo nên hương vị đặc trưng của sản phẩm ruốc Tôm.
Ruốc tôm, đặc sản nức tiếng của Mường Lò, Nghĩa Lộ (Ảnh sưu tầm)
Ruốc tôm là một món ăn tưởng chừng như rất đơn giản và dễ làm nhưng không phải ai làm theo công thức đó cũng ngon. Mỗi người, mỗi vùng miền đều có những bí quyết riêng tạo nên sự khác biệt trong hương vị của từng món ăn. Ghé thăm miền Tây Yên Bái, nơi có những bàn tay khéo léo đã chế biến món ăn này từ những nguyên liệu hết sức gần gũi để mang lại đầy đủ vị ngon đến với người thưởng thức.
Để làm được món ruốc tôm ngon thì việc chọn nguyên liệu cũng rất quan trọng. Từ nguyên liệu tôm nõm, thịt lợn, dầu thực vật và các loại gia vị của vùng Mường Lò cùng với kinh nghiệm truyền thống của đồng bào Tây Bắc đã tạo nên hương vị đặc trưng của sản phẩm ruốc tôm. Nguyên liệu để làm món ruốc tôm gồm: Tôm nõn (tôm suối) bóc vỏ, thịt lợn (nạc vai), dầu thực vật, gia vị.
Rêu suối Mường Lò
Rêu suối Mường Lò vừa dài, vừa êm lại vừa rất xanh mát vì thế cho nên từ lâu nó đã trở thành một món ăn của người Thái nơi đây. Để có thể cảm nhận hết vị ngon của rêu thì phải ra tận suối để vớt hoặc hái rêu và trải nghiệm quá trình chế biến của món ẩm thực độc đáo này.
Rêu suối là món ăn đặc sản của người Thái khắp Tây Bắc (Ảnh sưu tầm)
Theo người dân nơi đây, rêu suối Mường Lò xuất hiện rất kỳ lạ, giống như là nó được sinh ra bắt nguồn từ truyền thuyết về dòng Thia vậy. Vào độ tháng 9, tháng 10 cho đến tháng 5 tính theo lịch âm đó là mùa rêu đá ở Mường Lò. Rêu cứ như thế mọc lên ở tất cả các hòn đá có trong suối, chỉ có màu xanh đậm và không hề ra hoa kết quả. Vậy là đều đặn hàng năm, rêu cứ mọc như là một quy luật tự nhiên, khi mọc dài đến kích thước nhất định thì sẽ tự rụng và cuốn trôi theo dòng nước.
Mùa xuân là thời điểm rêu suối Mường Lò ngon nhất. Nếu muốn chọn được rêu sạch và non thì cần phải lấy rêu ở nơi có dòng suối chảy xiết và tập trung nhiều tảng đá to. Tuy nhiên, việc lấy rêu suối cũng không phải đơn giản bởi rêu thường nằm sâu ở dưới nước nên cần lội xuống mới có thể hái được rêu.
Măng sặt
Măng sặt Yên Bái là loại măng thuộc họ tre, búp măng thẳng, to bằng chuôi liềm, mọc tự nhiên ở các vùng đồi của tỉnh Yên Bái như Văn Chấn, Trạm Tấu, nhiều nhất là ở thị xã Nghĩa Lộ.
Vào mùa xuân, khi tiết trời có mưa ẩm, khoảng từ tháng 2 đến tháng 4 dương lịch, măng sặt phát triển rất nhanh, những ngọn măng nhú lên trên mặt đất, đồng bào các dân tộc người Thái, người Khơ Mú, người Dao thường dùng cuốc, thuổng, khéo léo đào lấy ngọn măng nằm sâu trong đất. Những ngọn măng tươi, còn lấm đất khi bóc ra sẽ mập mạp, trắng ngần, tươi ngon.
Măng được bày bán rất nhiều ở Nghĩa Lộ (Ảnh sưu tầm)
Bên cạnh đó, một món ăn chế biến từ măng sặt Yên Bái được rất nhiều du khách yêu thích đó là món măng sặt nướng, một món ăn vô cùng lạ lùng vô cùng hấp dẫn nhiều người. Măng sặt tươi khi mới đào về cho trên bếp than hồng, nướng chín đều, khi ăn bóc từng lớp vỏ bên ngoài chấm với mắm ớt sẽ cảm thấy rất thơm và ngọt, một món ăn thú vị và lạ lùng.
Ngoài ra măng sặt luộc chín, đem rán vàng rồi om với thịt vịt và tỏi, ăn nóng với hạt tiêu, hành, mùi rất lạ miệng. Măng sặt bóc vỏ đập dập ninh cùng sườn lợn thêm tỏi, cà chua, hành, mùi có vị ngon đậm đà. Măng sặt xào lòng gà, măng xào lòng vịt cũng rất thơm ngon. Măng sặt chẻ nhỏ ngâm với dấm ớt đóng lọ ăn dần cũng được nhiều người yêu thích.
Măng vầu cuốn thịt
Măng vầu thuộc họ tre, thân nhỏ không có gai. Chúng thường mọc ở rừng hoặc trên núi. Cứ hàng năm, đến tháng mười hai, từ dưới lớp lá hoai mục măng bắt đầu nhú lên, lộ hai tai nhỏ xíu xanh thẫm. Măng vầu ngon nhất vào tháng mười hai đến khoảng giữa tháng ba. Hầu như ở khắp các góc chợ miền núi đều có thứ đặc sản này.
Măng vầu cuốn thịt (Ảnh sưu tầm)
Ngoài cách chế biến măng vầu nhồi thịt, ta còn được thưởng thức món măng vầu xào tỏi hoặc xào rau răm. Măng tươi thái nhỏ, phi tỏi thật thơm cùng nhiều mỡ mới cho măng vào, măng ăn sẽ ngọt và giòn sần sật. Bên mâm cơm chiều, tiết trời lành lạnh, lãng đãng sương, âm thanh trong trẻo của núi rừng rất hợp với ẩm thực kiểu này. Nếu có dịp đặt chân đến một trong những tỉnh miền núi phía Bắc, bạn đừng quên thưởng thức món măng này.
Măng chua héo
Cứ vào khoảng tháng 9 – 10 hàng năm nếu du khách có cơ hội đến tham quan du lịch tại Yên Bái chắc chắn bạn sẽ được nếm thử một món được xem là đặc sản nơi đây hết sức hấp dẫn và độc đáo đó là món Măng chua héo Yên Bái.
Măng chua héo (Ảnh sưu tầm)
Đây là một món ăn hết sức phổ biến của người dân nơi đây. Người dân Yên Bái nơi đây bất kì ai mỗi khi lên nương lên rừng vào thời gian này đều sẽ tranh thủ để tìm một củ măng thật tươi thật ngon để mang về chế biến làm nên món đặc sản Măng chua héo Yên Bái. Nhất là những người của đồng bào Thái hoặc Tay họ sẽ không bao giờ bỏ qua thời điểm mà thiên nhiên ban tặng cho này được.
Có thể nói món Măng chua héo Yên Bái là một món ăn nếu bảo quản tốt sẽ để được rất lâu. Mọi người dân nơi đây cho rằng đây là một món ăn vừa ngon lại làm được nguồn thức ăn dự trữ vô cùng tốt. Có nhà để được món ăn này đến vài tháng trời thậm chí cả năm nhưng nó hoàn toàn không bị hư hỏng mà thay vào đó vẫn giữ nguyên được hương vị tuyệt vời như ban đầu. Như vậy qua những điều đó món Măng chua héo Yên Bái này hoàn toàn trở thành một món ăn đạt chuẩn có mặt trong mọi gia đình người dân nơi đây.
Xôi trứng kiến Mù Cang Chải
Theo lệ, cứ vào độ tháng hai, tháng ba âm lịch hằng năm là vào mùa trứng kiến. Khi đó bà con lại rủ nhau vào rừng. Nhưng muốn lấy được nguyên liệu trứng kiến ngon thì phải lấy vào những ngày nắng ráo. Nếu không trứng kiến thấm nước mưa sẽ ăn không ngon. Thường công việc này do cánh đàn ông đảm nhận, còn đến khi chế biến thì thường phụ nữ làm rất khéo.
Món xôi được làm từ nếp nương và trứng kiến đen (Ảnh sưu tầm)
Không phải loại kiến nào cũng có thể lấy trứng để chế biến món ăn. Kinh nghiệm của bà con là loại kiến để lấy trứng là kiến ngạt, có màu đen. Khi vào rừng, bà con tìm những tổ kiến to ở trên cây và chặt xuống để lấy trứng. Tuy nhiên, không bao giờ người vùng cao lấy hết trứng trong tổ. Bao giờ bà con cũng chừa lại một phần để kiến còn sinh sản cho vụ sau.
Chế biến xôi trứng kiến khá tỉ mỉ và cẩn thận. Gạo nếp ngâm và vo sạch, ngâm từ 3-4h sau đó mới vớt ra, rồi đem đồ. Khi thấy những hạt gạo căng phồng, chuyển thành màu trắng trong, hương thơm ngào ngạt. Còn trứng kiến sau khi được lấy về sàng lọc bỏ những tạp chất, sau đó ngâm vào nước ấm sạch để quấy nhẹ, rồi rửa trứng để thật ráo nước. Sau đó, trứng kiến được ướp gia vị rồi được xào cùng với củ kiệu đã được phi hành mỡ gà cho thật thơm, vừa chín tới và dậy mùi thơm hấp dẫn.
Trứng kiến đặt trong lá chuối và cho vào chõ xôi đã đồ, mùi thơm của trứng kiến kết hợp cùng với mùi thơm của xôi, vị béo ngậy của trứng kiến kèm theo với mỡ hành phi thơm sẽ rất hấp dẫn du khách. Người vùng cao Yên Bái thường ăn xôi nếp trứng kiến với cá suối sấy khô nướng than chấm muối ớt trộn chanh…
Vịt bầu Lục Yên
Vịt bầu Lâm Thượng có đặc điểm rất dễ nhận biết, đó là lông vằn, mình tròn, chân ngắn, cổ ngắn. Con đực đầu xanh biếc, nặng từ 2 – 2,5 kg, con mái nặng từ 1,8 – 2kg. Da vịt bầu mỏng, vàng như da gà, thịt vịt chắc, thơm ngon, vị ngọt đậm đà.
Vịt bầu Lâm Thượng, Lục Yên thịt chắc và thơm ngon (Ảnh sưu tầm)
Có lẽ do được chăn thả tự nhiên giữa những dòng suối mát lành chảy ra từ dãy núi đá có nhiều hang động tuyệt đẹp còn hoang sơ, ít dấu chân người biết đến, cùng những đồng ruộng tốt tươi màu mỡ, nên bởi vậy, vịt bầu Lâm Thượng có ưu điểm thơm, ngọt, da mỏng; được người dân trong huyện coi là món ngon dùng để thiết đãi khách quý, được khách phương xa luôn tìm thưởng thức mỗi khi có dịp về với đất Lục Yên và trở thành một trong mười sản phẩm đặc sản nổi tiếng của tỉnh.
Gà trống thiến Lục Yên
Nhắc đến ẩm thực vùng đất Ngọc Lục Yên, ngoài cam sành, khoai tím, cà giòn, hồng không hạt, vịt bầu Lâm Thượng… còn không thể không nhắc đến gà trống thiến Lục Yên. Với vị béo ngậy, thơm ngon, màu vàng bắt mắt, thớ thịt giòn dai, ngọt đậm, thịt gà trống thiến Lục Yên trở thành món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ những ngày Tết Nguyên đán.. Mỗi con nặng từ 3 – 3,5kg, mã rất đẹp, mào to đỏ chót, bộ lông đỏ tịm mềm mượt, đuôi dài… Thịt gà sau khi luộc có màu vàng óng, rất thơm, khi ăn béo ngậy, mềm nhưng săn chắc, ngọt, da dày và giòn.
Món Mọoc
Nếu như người Kinh có món mọc được làm từ giò sống và nấm hương, thả vào trong nước ăn cùng bún, mì… thì người Tày Lục Yên cũng có một món ăn với cái tên tương tự mọc (người Tày phát âm là “mọoc” với phần âm kéo dài hơi luyến) nhưng với những nguyên liệu khác. Món ăn này không chỉ có mặt trong các bữa ăn thường ngày mà còn trở thành món đặc biệt không thể thiếu được trong các cỗ lớn: ngày tết, ngày giỗ, ngày cưới… của người Tày.
Hoa chuối đem về thái sợi mỏng, rồi ngâm qua với nước vo gạo hay nước muối loãng, sau đó cho lên bếp đun sôi để giảm bớt nhựa trước khi đem bỏ vào cối giã nhuyễn cùng các nguyên liệu khác. Thịt lợn, cá, tôm cùng các loại gia vị đem giã nhuyễn. Có một điều thú vị nho nhỏ là trong cách chế biến của người Tày cá được bắt ở suối sẽ không mổ ruột mà để nguyên cả con vì theo quan niệm của người Tày, cá, tôm được nuôi ở suối ăn rong rêu, cỏ lá của thần sông nên họ rất quý trọng.
Sau đó cho tất cả các nguyên liệu đã qua sơ chế vào trộn đều, thêm chút muối, bột gạo nếp tạo độ kết dính, ta đã có được mọoc sống thành từng nắm nhỏ, gói bằng lá dong và xếp vào chõ xôi. Thời gian xôi khoảng 45 phút, trong khi xôi, lửa phải cháy đều liên tục. Mọoc chín xếp ra nong cho nguội rồi mới bày cỗ.
Trong bữa ăn, món mọoc được xếp ra đĩa và đặt ở vị trí trung tâm của mâm. Mọoc lúc này đã chuyển sang màu tim tím, dẻo quyện vào nhau như một chất hồ dính. Chấm với nước mắm có hạt dổi, ăn cùng rau sống. Khi thưởng thức, vị bùi bùi của hoa chuối, béo ngậy ngòn ngọt của thịt lợn và tôm cá cộng với vị cay của các loại gia giảm thấm dần vào vị giác của từng người, sẽ cho chúng ta một trả nghiệm rất thú vị về văn hóa ẩm thực độc đáo của người Tày Lục Yên.
Thịt mắm cơm đỏ người Tày
Thịt mắm cơm đỏ của người Tày Lục Yên không cầu kỳ như nhiều món ăn khác, được chế biến đơn giản từ các nguyên liệu mang đậm chất quê của người miền núi, thịt mắm cơm đỏ cho người thưởng thức biết tới một hương vị riêng biệt của món ăn dân tộc.
Nguyên liệu để làm món ăn này là thịt lợn, lá cơm đỏ, củ giềng, muối, rượu… Để có món mắm thịt ngon, thì thịt lợn phải tươi, thịt nửa nạc nửa mỡ hoặc chọn lấy phần thịt ba chỉ là ngon nhất. Vào những khi nhà có việc hệ trọng, hay khi Tết đến phải mổ lợn, dù to hay bé, người Tày ở Lục Yên thường dành riêng phần thịt ba chỉ để làm thịt mắm cơm đỏ.
Món này quan trọng nhất là không thể thiếu nguyên liệu lá cơm đỏ (Ảnh sưu tầm)
Sau đó thịt rửa sạch để ráo nước, thái chỉ ướp với muối và rượu (lưu ý phải là rượu nếp cẩm mới ngon). Giềng thái mỏng, lá cơm đỏ rửa sạch vò dập… Tất cả được trộn đều và cho vào chum đậy kín để chỗ thoáng mát tránh ánh nắng mặt trời, sau 30 ngày sẽ có một chum thịt mắm cơm đỏ thành phẩm.
Để chum mắm thịt cơm đỏ ăn được lâu, sau khi lấy ra ăn cần buộc chặt lại để bảo quản được lâu. Nếu mở ra nhiều chum mắm sẽ cay và không còn vị ngọt. Nếu bảo quản kỹ, món thịt nắm cơm đỏ có thể để được khoảng 5, 6 tháng.
Cá Sỉnh Nậm Thia
Người Thái Tây Bắc coi cá là món ăn quý trong đời sống thường ngày hoặc khi có hội. Pa khính Nậm Thia (cá sỉnh suối thia) là đặc sản đầy tự hào của người dân Mường Lò. Cá sỉnh ưa sống ở nơi nước xiết, mình thon dài, đầu nhỏ, vẩy trắng, lăn tăn như hoa bạc, hai bên lườn ánh xanh. Con nào to nhất cũng chỉ bằng bốn ngón tay, thịt chắc ngọt đậm, thơm, xương đã ít lại mềm.
Cá sỉnh đánh bắt trên dòng sông Nậm Thia (Ảnh sưu tầm)
Cá sỉnh có thể chế biến thành nhiều món ăn thơm ngon, độc đáo, dưới bàn tay nội trợ khéo léo của người con gái Thái. Món pa chen: Cá sỉnh rửa sạch, rán qua, để nguội rồi rán lại lần hai. Khi ăn, khách có thể dễ dàng tước cá thành bốn mảnh theo chiều dọc, chấm với nước chấm trộn chanh, gừng, ớt, hạt sẻn (một loại hạt giống hạt tiêu) thì thơm ngon vô cùng. Thịt của cá dai dai, bùi, thơm, béo ngậy hài hòa.
Món pa pỉnh tộp: Cá sỉnh ướp gừng, sả, hành, ớt, hạt sẻn… gập đôi kẹp các loại rau thơm ở giữa rồi cặp bằng cặp tre nướng than. Món này ăn nóng với cơm gạo mới hoặc xôi nếp Tú Lệ thì no mà không chán.
Món pa mọ: Cá sỉnh ướp với hạt sẻn, ớt, sả, gừng. Lấy hoa chuối rừng thái mỏng, ngâm nước cho sạch nhựa rồi trộn đều với gia vị, đặt cá vào giữa, rắc nộm hoa chuối xung quanh rồi lấy hai chiếc bẹ hoa chuối già làm áo, buộc kỹ và đồ chín bằng chõ. Khi chín rắc thêm vừng, lạc giã nhỏ, ăn nóng. Vị bùi thơm của hoa chuối hòa cùng hương vị của cá và gia vị kích thích vị giác và rất lạ miệng. Cá sỉnh còn được chế biến thành nhiều món ngon khác.
Pà Mẳm
“Pà mẳm” gọi theo tiếng của đồng bào Thái có nghĩa là mắm cá. Pà mẳm có nhiều loại nhưng ngon và quý phải kể đến Pà mẳm cá chép. Món ăn này tuy không cầu kỳ nhưng yêu cầu phải đảm bảo những nguyên tắc chế biến riêng.
Pà mẳm đơn giản là món mắm cá theo một cách gọi khác của người Thái (Ảnh sưu tầm)
Người Thái có nhiều loại mắm (mẳm), gọi tên theo nguyên liệu dùng để chế biến. Mắm cá chia ra mẳm đí làm bằng cá nhỏ và pà mẳm làm bằng cá to. Mắm làm bằng tôm gọi là mẳm củng hay mẳm manh khẩu san, bằng con quăng (một loại cá nhỏ) là mẳm tắc ten, bằng châu chấu là mẳm hén, bằng những con bọ ở nước là mẳm pá dí, mắm làm theo kiểu người Lào gọi là pà đẹc…
Nói chung, cá để làm mắm thường là loại mình dẹt, có vảy, ít khi làm bằng cá mình tròn không vảy.Chỉ bằng cá chép và thính gạo nếp, hạt sẻn, ớt tươi băm nhỏ, xả, riềng, quế chi đồng bào Thái đã chế biến được món ngon đậm đà hương vị.
Cá nướng hồ Thác Bà
Vốn là dòng sông có dòng chảy xiết, sông Chảy có nhiều loại cá bơi giỏi, thịt săn chắc như cá chày, cá bỗng, cá chiên, cá chép, cá trắm… ở cửa các dòng suối lớn đổ vào sông như Ngòi Biệc, Ngòi Tu…, người ta đã từng bắt được những con cá bỗng vài chục kg, cá chày 7 – 8kg bằng đánh cụp, bằng câu, bằng đánh lưới.
Cá nướng, đặc sản Thác Bà (Ảnh sưu tầm)
Cá bỗng có thân gần giống cá trắm, bụng và vây lại giống cá chép, miệng thuôn nhỏ, ăn cả mồi thực vật và động vật. Thịt cá bỗng đặc biệt thơm ngon khi được nướng hoặc rán vàng. Người ta cũng có thể dùng cá bỗng nấu lá tai chua ăn nóng, vị cá đậm đà mà không thấy mùi tanh.
Những loài cá ăn chìm có cá nheo, cá trạch, cá trê, cá bò, cá ngạnh. Cá trạch rán, cá trê kho với lá gừng. Cá nheo, cá bò nấu ám, hoặc kho với chuối xanh, ăn miếng chuối cứ bùi bùi như thịt cá. Cá ngạnh nấu dưa chua thì cả nồi ngon nhất là nước chan, vị ngọt của thịt cá như tan hòa thấm đậm vào cơ thể người thưởng thức.
Ăn nổi gần mặt nước có cá mương, cá thầu dầu. Ở hồ Thác Bà khi nước mới dâng một vài năm, cá thầu dầu tụ lại thành đàn đông, hớt một mẻ te (một dụng cụ đánh bắt cá) có khi được cả tạ cá. Cá chỉ nhỏ bằng ngón tay, làm sạch kho khô hoặc đem nấu canh hoa chuối, tra mẻ ngấu. Nước canh sẽ có màu trắng đục như sữa, cá có vị hơi đắng, ăn lạ miệng mà ngon. Cá thiểu gù cắt bỏ đầu, vây, đuôi, làm sạch rồi đưa vào cối xay xay nhuyễn trộn lá thơm sẽ biến thành món chả cá thật ưa dùng.
Cá được tẩm ướp bằng các loại gia vị như dầu điều, mật khoái, gừng riềng sả ớt, tiêu, tỏi rồi được nướng trên than hồng.
Mắm tép hồ Thác Bà
Thác Bà được ví là một vựa tôm tép và món mắm tép hồ Thác Bà cũng từ đó mà nổi tiếng nức vùng. Với món mắm tép này có thể ăn kèm chuối xanh và thịt lợn luộc, khế cùng rau đinh lăng, hoặc có thể đem hấp vào cơm cùng với trứng gà sẽ được một món ăn ngon lành mà là lạ chẳng kém gì đặc sản.
Mắm tép Thác Bà (Ảnh sưu tầm)
Bát mắm tép vô cùng hấp dẫn bởi vị mặn, ngọt, chua chua dịu, và mùi thơm đặc trưng. Ngoài ra, tép còn được kho với quả khế chua hoặc có thể đem hấp vào cơm cùng với trứng gà bạn sẽ được một món ăn ngon lành mà là lạ chẳng kém gì đặc sản. Tép kho ăn với cơm trắng dẻo, người kén ăn cũng không thể bỏ bữa nửa chừng. Mắm tép khi chín ngấu có màu đỏ sậm, rang với thịt lợn băm nhỏ ăn với xôi nếp Tú Lệ thì không biết chán, chỉ ngại no.
Bọ xít chiên giòn
Năm nào cũng vậy, cứ vào tầm tháng tư hè khi mùa hoa nhãn nở rộ, trên những chùm hoa phủ đầy phấn trắng xuất hiện nhiều chú bọ xít bám dày. Khi đó, người dân khu vực Văn Chấn, Nghĩa Lộ lại bắt đầu chuẩn bị chăm sóc cho mùa quả ngọt mới và lại có thêm một món ngon là món bọ xít chiên giòn.
Bọ xít chiên giòn (Ảnh sưu tầm)
Theo quan niệm của người dân, bọ xít nhãn là một loại côn trùng không độc hại và bổ cho sức khỏe bởi bọ xít là loại ký sinh sống dựa vào tinh chất của cây nhãn mà nhãn là loại hoa quả có hàm lượng dinh dưỡng cao.
Có rất nhiều cách hiệu quả để bắt bọ xít. Khi bọ xít còn non, chỉ cần tẩm nước măng chua hơ lên cây nhãn, chúng sẽ tự rơi xuống đất. Người ta dùng chiếc nẹp tre kẹp từng con bỏ vào túi. Với bọ xít già đã mọc cánh, phải dùng lưới mắt nhỏ và dày để bảo vệ hoa và quả nhãn. Sau khi đã buông lưới người ta thường dùng những sào dài rung nhẹ từng chùm hoa, bọ xít thấy động là bay khỏi chùm hoa, rơi liền xuống. Con nào rơi xuống đất phải nhanh tay nhặt liền kẻo chúng bay mất.
Người dân nơi đây chế biến bọ xít khá đơn giản. Để bọ xít không còn mùi hôi, người ta đem bọ xít ngâm xuống nước vài giờ cho đến khi bọ xít đã chết, bọt khí từ bọ xít bốc lên phủ kín mặt nước, bấy giờ người ta vớt ra, rửa sạch để ráo nước rồi đem sao vàng.
Khi bọ xít khi đã được sao vàng không còn mùi hăng hắc đặc trưng nữa mà có mùi rất thơm. Điều đặc biệt là không phải ướp bọ xít với gia vị gì, kể cả mắm, muối, mì chính. Khi ăn, đổ dầu lưng chảo, rồi xúc bọ xít vào rá sắt, nhúng vào dầu sôi một lát, rồi nhấc ra đĩa là tuyệt vời.
Bánh dày người Mông, Trạm Tấu
Với người Kinh, bánh Chưng là biểu tượng cho Tết, cho trái đất vuông tròn đầy đủ, còn với người Mông bánh dày là biểu tượng cho tình yêu, sự thủy chung son sắt của trai gái người Mông, bánh dày còn tượng trưng cho Mặt trăng, Mặt trời – là nguồn gốc sinh ra con người và muôn loài trên Trái đất.
Bánh dày tiếng Mông (Ảnh sưu tầm)
Theo những già làng người Mông kể lại: Thủa xưa có chàng trai người Mông tên là Nù Plai bị thần Hổ về bản bắt mất người yêu, Plai buồn lắm, chàng đau khổ đến quên ăn quên ngủ và quyết tìm gặp thần Hổ để đòi lại người yêu. Đường núi xa xôi hiểm trở, để đến nơi thần Hổ giam giữ người mình yêu, Plai phải lội qua bao thác ghềnh, vực sâu. Plai đã nghĩ ra cách nấu gạo nếp nặn thành bánh (nay gọi là bánh dày) làm lương thực để đi tìm lại người yêu.
Qua bao gian nan khổ ải, Plai đã tìm được nơi ở của thần Hổ. Cảm động trước tình yêu của chàng trai người Mông, thần Hổ đã trả lại người yêu cho chàng. Từ đó, chiếc bánh dày đã trở thành biểu tượng của tình yêu thủy chung đôi lứa của trai gái người Mông. Sự tích về bánh dày biểu tượng cho tình yêu của trai gái Mông đã đi vào cuộc sống, trở thành nét đẹp văn hoá trong cuộc sống của đồng bào.
Bánh chuối Lục Yên
Từ lâu chuối đã trở thành cây gần gũi, gắn bó với người Tày Lục Yên, bởi những hữu ích từ cây chuối đem lại. Từ những quả chuối chín vàng, đồng bào Tày ở huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái đã khéo léo chế biến thành những chiếc bánh chuối vô cùng hấp dẫn. Vị hấp dẫn ở bánh chuối là ngoài nhân có đỗ, lạc và đường còn lại các phụ gia đều từ chuối.
Bánh chuối Lục Yên (Ảnh sưu tầm)
Bánh chuối Lục Yên không đơn thuần chỉ là một món ăn, mà nó còn chứa đựng cả giá trị tinh thần ở trong đó. Nó là hiện thân của tinh thần tiết kiệm, là sự gắn bó và hài hòa cùng với thiên nhiên của bà con nơi đây. Vì thế cho nên, bánh chuối luôn được làm rất cầu kỳ, tỉ mỉ và công phu. Đặc biệt được sử dụng rất nhiều vào những dịp quan trọng như lễ tết hoặc là cúng bái của bà con dân tộc Tày. Vào dịp quan trọng thì bánh chuối là một món không thể thiếu được trên bàn thờ tổ tiên.
Khoai tím Lục Yên
Khoai tím Lục Yên (Ảnh sưu tầm)
Ở vùng đất Lục Yên tỉnh Yên Bái, củ khoai môn (còn gọi là khoai tím, khoai mán, khoai sọ núi) được đánh giá cao trong văn hóa ẩm thực của đồng bào địa phương. Dù được trồng ở nhiều vùng quê, song khoai môn trồng trên đất Lục Yên lại được đánh giá cao về độ bùi, thơm và có hương vị đậm đà. Cùng dòng với khoai sọ nhưng khoai môn Lục Yên có màu tím lạ mắt từ vỏ đến ruột, hoặc ruột trắng có nhiều chấm nhỏ màu tím rất đẹp mắt
Khoai tím Lục Yên là loại cây trồng thế mạnh của vùng núi cao Yên Bái. Khoai tím tuy giản đơn, bình dị nhưng khi đã thưởng thức thì sẽ khiến du khách khó quên. Vị ngọt thanh, béo bùi đặc trưng khiến món ăn này nức tiếng gần xa, ai đi qua vùng đất này đều muốn thưởng thức thử.
Đặc sản Yên Bái
Mận hậu Mù Cang Chải
Ở Mù Cang Chải mận hậu được trồng tại xã Kim Nọi, với diện tích trồng tuy không nhiều nhưng mỗi gia đình người Mông tại đây vẫn có khoảng chục gốc, mận hậu khác với mận tam hoa và các loại mận khác là chín muộn thường vào tháng 6 dương lịch, quả chín cũng có mầu xanh hoặc hơi ngả vàng.
Mận hậu (Ảnh sưu tầm)
Du khách lên Mù Cang Chải vào dịp này, không chỉ được ngắm và chiêm ngưỡng không gian kỳ vĩ, bao la, điệp trùng của ruộng bậc thang, những bản làng người Mông yên bình nằm nép mình chênh vênh bên vách núi đá, mà còn được đến thăm những vườn mận hậu trĩu quả của bà con người Mông tại xã Kim Nọi.
Thú vị hơn du khách còn có thể chụp những bức ảnh kỷ niệm ngay tại vườn bên những cây mận với chùm mận xanh ngắt, được trải nghiệm khi trực tiếp hái mận và thưởng thức những quả mận chín ngọt còn tươi nguyên cành, cảm nhận sự tinh khiết, trong lành và ngon ngọt tự nhiên.
Mật ong nhãn Văn Chấn
Cuối tháng Tư, từ thành phố Yên Bái bầu trời nặng nước từ sau tết khiến cả vùng đầy ẩm ướt và nồm nhưng vượt qua đèo Ách, nắng bừng lên làm lòng người rộn rã. Mật ong hoa nhãn được khai thác tại các huyện vùng cao như Sông Mã (Sơn La) và Văn Chấn (Yên Bái) nơi các cây trồng không bón phân hóa học và phun thuốc trừ sâu bệnh. Đặc biệt mật ong nơi đây có hương thơm đặc biệt và không bị lên men.
Bưởi Đại Minh
Yên Bình có giống bưởi Đại Minh ngon nổi tiếng. Bưởi Đại Minh được các nhà khoa học đánh giá là 1 trong 7 giống bưởi quí, thơm ngon nổi tiếng, sánh với các giống bưởi quí như: Năm Roi, Phúc Trạch, bưởi Diễn, Thanh Trà…
Quả bưởi đặc sản ở xã Đại Minh, Yên Bình (Ảnh sưu tầm)
Bưởi Đại Minh ngon có tiếng, từ lâu đã trở thành đặc sản của vùng quê này và là niềm tự hào của người dân Yên Bái. Lễ hội bưởi Đại Minh và khám phá danh thắng quốc gia hồ Thác Bà được diễn ra hàng năm.
Táo mèo Mù Cang Chải
– Vị quả: Khi ăn táo mèo Mù Cang Chải sẽ thấy vị hơi chát, ngọt thơn và chua chứ không quá ngọt khát hoặc chát xít như các loại táo mèo khác. Táo có tính chất khá giòn, không mềm xốp. Ăn vào co cảm giác hơi xít răng. Đây cũng chính là công dụng làm trắng răng dễ nhận thấy của táo mèo khi dùng thường xuyên.
Táo mèo Mù Cang Chải mua về ngâm rượu rất thơm (Ảnh sưu tầm)
– Hình dáng: Táo mèo Mù Cang Chải có hình tròn, hơi dẹt, khi chính hơi trắng, hồng, mùi thơm. Để chọn quả táo ngon, không nên tham to mà chỉ chọn quả vừa phải, bị sâu cũng chính là đặc điểm nhận dạng táo mèo ngon.
– Cảm nhận khi cầm vào táo mèo Mù Cang Chải thường khá chắc tay, khi táo héo, quả vẫn săn lại chứ không bị thối nhũn hay mềm, nát như các loại táo khác.
Quế Văn Yên
Do có địa hình đồi núi cao, nằm trong vùng khí hậu phù hợp với sự sinh trưởng của cây Quế, nên vùng Quế Văn Yên được hình thành từ lâu đời và gắn liền với cuộc sống của người Dao. Người Dao ở Văn Yên cần cù, chịu khó, gắn bó với cây Quế, nghề Quế, nên những kinh nghiệm trồng Quế đặc trưng như: chọn giống, trồng cây, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản cũng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Dao.
Quế Văn Yên nổi tiếng rất thơm (Ảnh sưu tầm)
Thịt trâu gác bếp
Thịt trâu gác bếp (hay còn gọi là thịt trâu khô,thịt trâu hun khói,trâu sấy) là món ăn truyền thống mang phong cách ẩm thực của dân tộc Thái. Với hương vị đậm đà và mùi thơm hấp dẫn, thịt trâu Tây Bắc không chỉ là món ngon chiêu đãi gia đình mà còn là món quà độc đáo, ý nghĩa dành tặng người thân, bạn bè trong dịp tết đến, xuân về.
Thịt trâu gác là một đặc sản núi rừng Tây Bắc (Ảnh sưu tầm)
Thịt trâu được tẩm ướp các loại gia vị (không thể thiếu mắc khén nhé) theo công thức riêng tùy tay người làm rồi sấy khô. Nếu được sấy bằng khói trên bếp củi thì thịt trâu khi ăn sẽ có mùi hơi khét khét của khói, nhưng mà ngon lắm. Món này muốn mua nhiều khi cũng không có sẵn mà phải đặt trước.
Lạp xưởng Yên Bái
Có thể nói, làm lạp xưởng (lạp sườn) là bí quyết riêng không phải nơi nào cũng biết. Chỉ với công thức chung gồm thịt ba chỉ thái nhỏ, bột canh, hạt tiêu, mật ong, đường, rượu trắng… nhưng để tạo nên được món lạp xưởng ngon nức tiếng thì phải có bí quyết riêng.
Lạp xưởng thường được sản xuất và chế biến tại các tỉnh miền núi phía Bắc (Ảnh sưu tầm)
Làm lạp xưởng (lạp sườn) phải cẩn thận chú ý đến thời gian tẩm ướp, chú ý đến khâu củi lửa, không được đun to, không được để tắt bếp trong giai đoạn thịt lên men… nếu không lạp xưởng (lạp sườn) dễ bị chua, nhanh bị ôi, thối sau này.Nhiên liệu để sấy thịt và lạp xưởng (lạp sườn) cũng không đơn giản, phải là than hoa, bã mía, vỏ trấu, lá quế tươi, nếu là củi thì phải là thân cây quế, là thân tươi càng tốt.
Theo giải thích của người làm nghề lạp xưởng (lạp sườn) thì nhiều người tham sẽ sấy bằng than tổ ong, rất độc hại; củi thì có rất nhiều loại gỗ chứa các chất độc, khói độc áp vào thịt sẽ có hại, nhất là gây đau bụng. Vì thế nhất thiết phải than hoa, hoặc củi quế. Nếu có dịp đến với vùng cao Yên Bái này thì các bạn nhớ đừng quên thưởng thức món lạp xưởng này để cảm nhận sự khác biệt so với lạp xưởng nơi khác nhé!
Rượu thóc La Pán Tẩn
Rượu La Pán Tẩn (Ảnh sưu tầm)
Theo các già làng người Mông xã La Pán Tẩn kể lại, thì từ lâu lắm rồi đã thấy người Mông làm thứ rượu thóc quý này. Rượu thì nhà ai cũng nhiều, nhưng khách phải quý lắm thì người Mông mới mời uống. Mà đã uống thì phải uống bằng bát, uống cho bằng hết rượu trong nhà thì thôi.
Chủ nhà “chào cỗ” với khách bằng hai bát rượu, khách cũng phải đáp lễ bằng hai bát. Uống xong mặt cười phơ lớ, rồi bắt tay nhau, rồi lại uống tiếp. Uống cho say đến độ không biết gì nữa, rồi cả chủ lẫn khách ôm nhau nằm ngủ dưới sàn đất trải rơm. Khách quý của người Mông thì phải như thế.
Được cái rượu người Mông uống say không bao giờ bị đau đầu như thứ rượu Vodka hay cuốc lủi pha thuốc sâu ở dưới xuôi. Đêm uống say sáng ra người tỉnh táo như vừa trải qua một giấc ngủ. Rượu thóc La Pán Tẩn ngon nổi tiếng đến nỗi hàng năm Tết đến, nhiều người ở dưới Hà Nội kì công phóng cả ô tô lên mua vài chục lít về vừa uống vừa đi tặng. Giá một lít chỉ vào khoảng 30 nghìn đồng, không nhiều, nhưng cũng là một nguồn tăng thu nhập cho người La Pán Tẩn.
Chè Shan Tuyết Suối Giàng
Nếu bạn đã từng lên thăm xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, đều không khỏi ngỡ ngàng trước bạt ngàn những cây chè Shan Tuyết cổ thụ to lớn thân nhuộm màu trắng mốc, uốn lượn nhiều cành buộc người hái phải trèo lên mới thu hoạch được. Chè Shan Tuyết cổ thụ có thân cây to bằng vài người ôm, màu trắng mốc, tán cây rộng khoảng 20m², lá màu xanh đậm.
Chè Shan Tuyết Suối Giàng (Ảnh sưu tầm)
Chè cổ thụ nhiều đến nỗi viện sĩ K. M. Djemmukhatze thuộc viện sinh hóa A – Ba – Cu, Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, khi đến Suối Giàng nghiên cứu vào những năm 60 của thế kỷ 20 này phải thốt lên: “Tôi đã đi qua 120 nước có chè trên thế giới, nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là cội nguồn của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè trên thế giới” (lời ghi trong sổ lưu niệm của xã Suối Giàng).
Thừa hưởng khí hậu núi cao quanh năm mát mẻ, nhiều ngày có mây mù nên chè ở đây búp to, phủ một lớp lông tơ mịn như nhung, trắng như tuyết. Chè Shan Tuyết là loại cây mọc tự nhiên trên vùng núi cao, được nuôi dưỡng bằng sinh khí của đất, trời nên búp và lá chè rất to, có màu xanh đậm, trên mặt lá phủ một lớp lông tơ mỏng trắng như tuyết. Vì vậy mà chè có tên Shan Tuyết (chè được ngậm tuyết trên núi cao).
Chè Shan Tuyết Suối Giàng xưa nay được xếp hàng “đầu bảng” các loại chè. Mọi người vẫn bảo đây là loại chè “năm cực”. “Cực khổ” – khi trồng và thu hái; “cực sạch” – vì những điều kiện khí hậu, môi trường và cả công chăm giữ của người trồng; “cực hiếm” – vì sản lượng ít (đến nay, dù đã tăng thêm diện tích trồng nhưng mỗi năm nhiều lắm cũng chỉ mới thu hái được chừng 200 tấn chè búp); “cực ngon” – với đủ các phẩm chất đỉnh cao mà mỗi chén trà phải có như hương thơm, vị đậm, nước xanh. Và vì cả bốn “cực” trên nên đương nhiên, có thêm “cực đắt”.
Cam Văn Chấn
Vào đầu những năm 80, huyện văn chấn đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, loại bỏ dần diện tích cây trồng kém hiệu quả chuyển sang trồng cây ăn quả.
Cam Văn Chấn (Ảnh: hachi8)
Đến vùng đất Văn Chấn – Yên Bái, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng những vườn cam bạt ngàn, phủ khắp các sườn đồi. Cam Văn Chấn mọng nước, ít hạt và có mùi thơm đặc trưng, là món quà tốt cho sức khỏe người thân.
Lịch trình du lịch Yên Bái
Mù Cang Chải 3 ngày 2 đêm
Bay dù lượn trên đèo Khau Phạ (Ảnh sưu tầm)
Lịch trình này dành cho các bạn chỉ tập trung trải nghiệm ở Mù Cang Chải rồi trở lại Hà Nội ngay mà không đủ thời gian để đi thêm những địa điểm khác. Các bạn có thể kéo dài 4 ngày 3 đêm để có nhiều trải nghiệm hơn nha.
Ngày 1: Hà Nội – Nghĩa Lộ
17h xuất phát từ Hà Nội – Sơn Tây – Thanh Sơn – Thu Cúc – Nghĩa Lộ (hơn 180km) tối khoảng 21-22h ngủ nghỉ tại Nghĩa Lộ. Cung đường chạy theo QL32 khá đẹp tuy nhiên buổi tối một số đoạn không có đèn đường nên nếu các bạn đi cẩn thận thì cũng không có gì đáng ngại.
Ngày 2: Nghĩa Lộ – Thu Cúc – Đèo Khau Phạ – Mù Cang Chải (99km)
Sáng dậy sớm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi khởi hành đi từ Mù Cang Chải. Quãng đường từ Nghĩa Lộ đến Mù Cang Chải dài vẻn vẹn 100km đoạn đến đèo Khau Phạ đường khá đẹp, các bạn sẽ được đi qua cánh đồng Mường Lò, xã Tú Lệ, đèo Khau Phạ, các bản Lìm Mông, Lìm Thái. Xa hơn nữa về phía trung tâm huyện là La Pán Tẩn, mâm xôi… tất cả đều là những cánh đồng lúa vàng óng trong mùa lúa chín.
Ngày 3 : Mù Cang Chải – Hà Nội
Ngày cuối xuất phát từ Mù Cang Chải chạy thẳng về Hà Nội, quãng đường khoảng hơn 300km nên nếu đi sớm các bạn sẽ có thời gian vừa đi vừa ngắm cảnh, hơi tiếc là chặng đi và chặng về vẫn trên cùng một đường nên sẽ nhàm. Nếu đi oto thì các bạn có thể đổi sang lộ trình đi tuyến cao tốc Hà Nội – Lào Cai để thêm trải nghiệm.
Hà Nội – Thác Bà – Hà Nội
Ngày 1: Hà Nội – Hồ Thác Bà
Khởi hành từ Hà Nội sớm (khoảng 4h đến 5h sáng) đi theo đường cao tốc Lào Cai rẽ sang TP Yên Bái, ưu điểm là đi cao tốc khá nhanh nên chỉ mất khoảng 2 tiếng là có mặt ở Yên Bái, đến đây các bạn dừng ăn sáng hoặc có thể ăn tại các điểm dừng nghỉ trên cao tốc.
Sau đó các bạn tiếp tục di chuyển đi thăm thủy điện Thác Bà, thuê thuyền dạo chơi lòng hồ thủy điện. Đến trưa dừng ăn uống nhớ thưởng thức cá nướng hồ Thác Bà.
Ngày 2: Thác Bà – Hà Nội
Dậy sớm ngắm bình minh,vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Sau đó các bạn có thể thuê thuyền đi tam quan Hồ Thác Bà, đền Thác Bà, Thác Ông, động Thủy Tiên. Trưa quay lại nhà sàn nghỉ ngơi ăn uống, làm thủ tục trả phòng rồi quay lại Hà Nội.
Hà Nội – Nghĩa Lộ – Trạm Tấu – Tà Xùa
Ngày 1: Hà Nội – Nghĩa Lộ
Sáng xuất phát từ Hà Nội đi theo hướng QL 32 qua Sơn Tây, cầu Trung Hà, Thanh Sơn – Thu Cúc rồi đi thẳng QL32 lên Nghĩa Lộ, chặng đường khoảng 180km nên mất khoảng hơn 5 tiếng. Tuy nhiên đường cũng khá đẹp nên các bạn yên tâm nhé.
Lên tới Nghĩa Lộ các bạn đừng nghỉ ở khách sạn, hãy vào một trong những bản du lịch cộng đồng ở Nghĩa Lộ để lưu trú, vừa sinh hoạt vừa ăn ở và tìm hiểu văn hóa của người dân địa phương. Trước khi đi đặc biệt là vào các dịp lễ tết hay tầm đầu mùa lúa tháng 9 thì nhớ gọi điện đặt phòng trước và để người dân còn chuẩn bị thức ăn cho đủ số lượng người trong đoàn.
Ngày 2: Săn mây Tà Xùa
Từ Nghĩa Lộ các bạn đi vào Trạm Tấu, chặng đường này thì gần thôi nhưng đường cũng không đẹp lắm. Có thể ghé chơi tắm suối nước nóng khu 5. Tiếp tục đi sang Bắc Yên, đường này chính là đường lên Tà Xùa, tùy vào thời gian đi mà các bạn có thể ở lại Tà Xùa để săn mây. Nhưng nếu chọn cung này để sang Tà Xùa thì khuyến cáo đường rất xấu vào khó đi đặc biệt với các bạn đi xe tay ga hoặc chưa có kinh nghiệm đi phượt. Toàn bộ chặng từ Nghĩa Lộ lên đến Tà Xùa chỉ vào khoảng gần 90km nhưng thời gian có thể nửa buổi.
Ngày 3: Tà Xùa – Hà Nội
Ngày cuối này thì chạy ngược lại về Hà Nội, nếu không ngại đường xa các bạn có thể đi theo QL43, đi qua bến phà Vạn Yên trên sông Đà rồi từ đây quay lại ra QL6 để về Hà Nội. Hoặc các bạn có thể đi theo hướng về ngã 3 Cò Nòi, Sơn La rồi chạy theo QL 6 thẳng tắp về Hà Nội. Đường này cũng đẹp lắm mà ôm cua cũng phê.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch phượt Mù Cang Chải
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Hồ Thác Bà, Yên Bái
Xem thêm: Hướng dẫn trekking Tà Xùa từ hướng Yên Bái
Xem thêm: Các món ăn ngon ở Yên Bái
Discussion about this post