“Yên Tử, nơi Đất Trời giao hòa, gió mây vấn vương như rồng chầu hổ phục. Hàng trăm năm qua, bầu nguyên khí dưới cánh rừng Yên Tử vẫn tiếp truyền nguồn năng lượng tinh khôi vào từng hơi thở, từng bước chân của du khách. Mái chùa, phiến đá tĩnh tại kể chuyện về một vị Vua hóa Phật …”
Du lịch Yên Tử là một di tích và danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Quảng Ninh. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh là ” đất tổ Phật giáo Việt Nam”. Vốn là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử thường có mây bao phủ nên trước đây có tên gọi là Bạch Vân sơn. Hãy cùng RuudNguyen.com ghé thăm điểm du lịch nổi tiếng này nhé.
Giới thiệu chung về Yên Tử
Núi Yên Tử xưa có nhiều tên gọi: Tượng Sơn (Núi Voi), Bạch Vân Sơn (Núi Mây Trắng), Phù Vân Sơn (Núi Mây Nổi), Linh Sơn (Núi Thiêng), An Tử… Trên đỉnh núi ngày nay vẫn còn lưu dấu tích kiến tạo vỏ trái đất cách đây 10 triệu năm với bãi đá ngổn ngang thiên hình vạn trạng. Trong lòng núi có mỏ than lớn. Sóng núi điệp trùng, rừng đại ngàn che phủ, muôn dải núi đều chầu về Yên Tử, cây mọc chênh vênh trên vách đá, thấp thoáng tháp chùa cổ kính rêu phong, thác đổ, suối reo…, đẹp như những bức tranh thủy mặc.
Từ trên đỉnh Yên Tử nhìn xuống núi (Ảnh sưu tầm)
Nhìn tổng thể, khu di sản đề cử nằm trong vùng núi cao Yên Tử, thuộc cánh cung Đông Triều với độ cao trung bình trên 600m, đỉnh cao nhất là ngọn núi Yên Tử có độ cao 1.068m so với mực nước biển. Cánh cung Đông Triều được xem là “phên dậu” phía Đông Bắc của Việt Nam. Vùng núi này không chỉ là một thắng cảnh thiên nhiên, nơi bảo tồn nhiều giống loài động, thực vật mà còn là quê hương của Vương triều nhà Trần trong lịch sử, là “Đất tổ Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam”.
Từ xưa, Yên Tử được coi là Cõi Tiên, Cõi Phật – nơi con người tu thành Tiên, thành Phật. Tục truyền: Hơn hai ngàn năm trước, thầy Yên Kỳ Sinh về núi này tu Tiên, hái lượm cây thuốc, luyện thần dược trường sinh bất lão và chữa bệnh cứu người, khi mất đã hóa thành tượng đá, tên gọi “thầy Yên” là “Yên Tử”.
Non Thiêng Yên Tử chính là nơi dung dưỡng tinh thần, giúp con người hướng thiện, trở về bản tâm chân thật của chính mình. Gần một nghìn năm qua, đây là nơi tu hành, thành đạo của của các bậc anh hào hiền lương mà cuộc đời, sự nghiệp đã trở thành bất tử, từ Tổ Hiện Quang thời Lý (trước năm 1220) đến các Tổ: Đạo Viên, Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ, Tam Tổ Trúc Lâm… thời Trần (thế kỷ XIII – XIV), từ Tổ Chân Nguyên thời Lê (thế kỷ XVII) đến Ni sư Đàm Thái thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XX).
Yên Tử là nơi vua Trần hiển Phật. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) làm vua ở tuổi 20. Sau khi tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, hai lần (1285 và 1288) đánh thắng giặc Nguyên Mông – đội quân hùng mạnh nhất thời ấy, Ngài thực hiện thành công các cuộc hòa giải, xây dựng đất nước Đại Việt thịnh vượng. Từ bỏ ngôi vua ở tuổi 35, Ngài về hành cung Vũ Lâm rồi lên Yên Tử tu khổ hạnh. Từ chức vị cao sang của nhà vua, vua Trần trở về ngôi tôn quý của Nhà Phật. Ngài mất ở am Ngọa Vân trên dãy núi Yên Tử. Ngôi tháp Huệ Quang trước chùa Hoa Yên thờ xá lợi của Ngài.
Yên Tử là “phúc địa” (đất phúc), “linh địa” (đất thiêng), nơi hội tụ khí thiêng sông núi, được ghi vào điển thờ. Yên Tử lưu giữ những giá trị cao quý về lịch sử, văn hóa, văn minh qua các thời đại. Đây là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa; một dòng Thiền nhập thế, mang đậm bản sắc dân tộc.
Yên Tử là nơi có vị trí quan trọng trong nền Phật Giáo Việt Nam (Ảnh: RuudNguyen.com)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chỉ ra rằng: Phật ở ngay trong Tâm mình, không phải ở đâu trên cõi trời xa xôi, không hẹn kiếp khác. Đức Phật chỉ là Người Thầy Dẫn Đường, không phải là thánh thần ban phước, giáng họa. Nếu để cho Tâm mình an định, sáng suốt, buông mọi vọng niệm, tham-sân-si… để sống với bản tâm an nhiên thanh tịnh thì trí sáng, tuệ giác phát sinh, vô minh phủi sạch, khổ đau chấm dứt, sẽ giác ngộ thành Phật. Phật chính là mình, không phải cầu tìm ở bên ngoài. Với quan điểm ấy, Thiền phái Trúc Lâm thực sự lấy con người làm gốc, tôn trọng và đề cao giá trị của con người. Thiền phái Trúc Lâm là nền tảng tư tưởng và đạo đức của một giai đoạn hoàng kim thời Trần ở Việt Nam.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo Thiền Tông thuần Việt, do người Việt trực tiếp sáng lập ra. Là nơi hội tụ của các công trình kiến trúc cổ kính do các Tăng, Ni, Phật tử và triều đình phong kiến của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng, tu bổ và tôn tạo. Những công trình này đã phản ánh khá rõ nét sự phát triển của kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc, tiêu biểu cho tài năng sáng tạo nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Đây là một quần thể di tích rất lớn và ra đời sớm ở Việt Nam.
Nên du lịch Yên Tử vào thời gian nào?
Nếu bạn muốn đi du lịch Yên Tử để tham gia lễ hội ở Yên Tử thì bạn nên đi vào đầu năm. Bởi lễ hội Yên Tử thường được tổ chức vào mùng 10-1 đến hết tháng 3 (âm lịch) vì thế bạn có thể lựa chọn thời điểm này để thực hiện cuộc hành trình của mình nhé.
Đi vào mùa lễ hội thì sẽ hơi đông khi đến với Yên Tử nhé (Ảnh sưu tầm)
Hướng dẫn đường đi Yên Tử từ Hà Nội
Đi Yên Tử bằng xe khách
Hầu như tất cả các xe đi tuyến Hà Nội – Hạ Long đều có qua Yên Tử. Các bạn có thể ra bến xe Mỹ Đình sau đó bắt các xe như: Kumho Viet Thanh, Đức Phúc, Ka Long, Văn Minh… Theo kinh nghiệm du lịch Yên Tử trong ngày thì bạn nên bắt xe đi từ Hà Nội lúc 4h sáng. Như vậy khi bạn đến Yên Tử khoảng 8h sáng, bạn sẽ tham quan được trọn vẹn một ngày.
Sau đó bạn hãy dặn bác tài xế cho xuống đường đi Yên Tử, các bác tài sẽ cho bạn xuống chân đền Trình. Từ đây các bạn có thể bắt xe ôm đến Yên Tử. Giá mỗi lần là 40k, đối với ngày thường.
Đi Yên Tử bằng xe máy hoặc ô tô riêng
Theo kinh nghiệm du lịch Yên Tử an toàn thì muốn đi từ Hà Nội bạn phải thuộc đường đi Hà Nội – Uông Bí hoặc Hà Nội – Hải phòng để tránh nhầm đường.
+ Di chuyển theo hướng Hà Nội – Uông Bí: Bạn có thể đi theo hướng cầu Chương Dương – Nguyễn Văn Cừ – Thành phố Bắc Ninh, sau đó di chuyển tiếp theo quốc lộ 18. Sau đó bạn sẽ đến đền Trình, ở đây bạn có thể đổ xăng và nghỉ ngơi sau đó đi tiếp đến Yên Tử.
+ Di chuyển theo hướng Hà Nội – Hải Phòng: Theo quốc lộ 5, tới km 14 QL 5 khoảng 94km, tới Quán Toan. Sau đó đi thẳng và rẽ tay trái ở đoạn ngã 3 thứ nhất ( rẽ phải là lên cầu, rẽ trái rồi đi thẳng) và rẽ trái tiếp ở đoạn ngã 4, tổng đoạn này là 6km là bạn tới chân cầu Kiền. Tiếp theo bạn đi dọc Ql 10 đến đoạn rẽ tay trái, đi khoảng 2km là tới đền Trình Yên Tử.
Cáp treo lên Yên Tử
Có 2 tuyến cáp treo đưa du khách lên Yên Tử (Ảnh: RuudNguyen.com)
Leo núi Yên Tử bằng đường bộ: Với đoạn đường dài hơn 6km, cùng hàng nghìn bậc đá xếp, du khách khi đi leo núi đường bộ sẽ được hòa mình vào thiên nhiên giữa tán rừng trúc, rừng thông cũng rất thú vị đấy nhé. Vì leo núi một đoạn đường khá dài, mất nhiều sức nên việc bạn chuẩn bị cho mình những chai nước khoáng, nước lọc và một chút đồ ăn nhẹ bên theo mình là rất cần thiết.
Leo núi Yên Tử bằng cáp treo: Hệ thống cáp treo hiện đại vượt quãng đường trên 1,2km lên tới độ cao 450m gần chùa Hoa Yên. Với cách này, bạn không những tiết kiệm được sức lực khi leo núi, mà từ trên cao bạn còn có thể ngắm nhìn toàn cảnh núi rừng Yên Tử với những cây tùng hàng trăm năm tuổi cùng bầu không khí trong lành giúp du khách khi đi cáp treo sẽ có được cảm giác thoải mái.
Hiện cáp treo lên Yên Tử sẽ có 2 tuyến.
- Tuyến 1: Giải Oan – Hoa Yên
- Tuyến 2: Một Mái – An Kỳ Sinh
Giá vé 1 chiều của cả 2 chặng này là 150k (1 lượt), khứ hồi 1 chặng là 250k (1 lượt lên 1 lượt xuống) và nếu mua khứ hồi cả 2 chặng sẽ là 300k (2 lượt lên 2 lượt xuống). Nếu xác định đi cáp treo thì nên mua khứ hồi cả 2 chặng cho rẻ nhé.
Cáp treo lên Ngọa Vân
Tuyến cáp treo Ngọa Vân sẽ đưa các bạn lên tới chùa Ngọa Vân một cách nhanh chóng (so với việc leo bộ vài tiếng).
Các địa điểm du lịch Yên Tử
Đông Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh)
Khu di tích lịch sử và danh thắng Đông Yên Tử có diện tích khoảng 9.295 ha, gồm các công trình kiến trúc tôn giáo: chùa, am, tháp được xây dựng từ thời Lý, theo tuyến đường trải dài từ Bí Thượng (chân Dốc Đỏ) đến đỉnh núi Yên Tử thuộc phường Phương Đông, xã Thượng Yên Công (thành phố Uông Bí) và xã Hồng Thái Đông (thị xã Đông Triều), tỉnh Quảng Ninh.
Chùa Trình
Chùa Trình, tên gọi khác là Chùa Bí Thượng vì Chùa toạ lạc trên một sườn đồi ở làng Bí Thượng thuộc Tổng Bí Giàng, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên xưa, nay là khu Bí Thượng thuộc Phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chùa Bí Thượng xưa được xây dựng vào thời Hậu Lê. Chùa hướng Tây Nam, quy mô kiến trúc kiểu chữ Nhất (-).
Chùa Trình, nơi du khách thường đến đầu tiên khi bước vào hành trình lên Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Đến đầu thế kỷ XIX chùa được dựng lại với kiến trúc chữ Nhất trên nền chùa cũ nhưng quy mô nhỏ hơn. Đầu thế kỷ XX, Chùa bị hoả hoạn, có bà Phật tử họ Bùi đã phát tâm công đức phục dựng lại ngôi chùa theo kiến trúc hình chữ Đinh rộng hơn chùa cũ với kiến trúc 03 gian tiền đường, một gian hậu cung. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp chùa bị phá huỷ. Vào năm 1993 bằng nguồn công đức của nhân dân trong vùng, chùa được xây dựng lại với kiểu kiến trúc nhà cấp 4, có 03 gian. Đến năm 1999 chùa được tu sửa khang trang.
Năm 2006 bằng nguồn đầu tư của Nhà nước và nguồn công đức của du khách thập phương chùa Bí Thượng được xây dựng và mở rộng với quy mô to lớn như hiện nay.Chùa Bí Thượng trở thành ngôi chùa Trình của cả hệ thống chùa tháp Yên Tử. Là Trụ sở của Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh
Chùa Suối Tắm
Chùa Suối Tắm toạ lạc ở thế đất tựa đầu Rùa thiêng (linh quy) bên sườn dốc cửa Ngăn thuộc dãy núi Kim Cương. Từ Chùa Trình đi vào khoảng 5km sẽ tới đây.
Chùa Suối Tắm (Ảnh sưu tầm)
Tương truyền: Hơn 700 năm trước, khi đến Yên Tử tu hành có lần Vua Trần Nhân Tông cùng Bảo Sái là đệ tử thân tín của Ngài đã xuống tắm mát ở suối, có ý nghĩa như để gột sạch bụi trần trước khi vào cõi Phật. Mỗi khi qua đây, nhìn cảnh sắc chùa và con suối trong mát in bóng những cây cổ thụ, ta thành tâm chiêm bái nhớ lại:
“Vua vào Yên Tử tu hành,
Thấy con suối nhỏ trong lành chảy qua,
Tắm xong người thấy khoẻ ra,
Bụi trần rũ sạch như là phép tiên,
Nhẹ tênh bước tới cửa thiền,
Đắc đạo hoá Phật giữa miền Non thiêng…”
(Thơ Vũ Xuân Hồng)
Chùa Cầm Thực
Rời chùa Suối Tắm, đi khoảng 1.500 mét trên con đường lớn chạy quanh co bên dòng suối Tắm, du khách sẽ tới chùa Cầm Thực, ngôi chùa thứ ba trong lộ trình tham quan Yên Tử. Chùa Cầm Thực còn được gọi là chùa Linh Nhâm (Bóng Thiêng).
Đường vào Chùa Cầm Thực Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Ngôi chùa tọa lạc trên một đỉnh núi hình tròn. Quanh chùa trồng thông xen lẫn với cây rừng. Tương truyền: Đây là nơi Thượng hoàng Trần Nhân Tông nhịn ăn (cầm thực), chỉ uống nước suối cầm hơi trên đường hành hương về Yên Tử tu hành. Dấu tích nền móng chùa kiến trúc hình chữ “nhất” (一), gồm 6 gian, có niên đại thời Trần.
Chùa Lân – Thiền viện Trúc lâm Yên Tử
Chùa Lân hay còn gọi Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. Chùa toạ lạc trên một quả núi giống hình con Kỳ Lân nằm phủ phục, nên chùa được đặt tên theo dáng núi.
Cổng chính Thiền viện Trúc lâm Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Chùa Lân là ngôi chùa có vị trí ở cửa ngõ vào khu trung tâm chùa tháp ở Yên Tử và là ngôi chùa Trình thời Lý- Trần – Lê. Hệ thống kiến trúc Chùa Lân ngày nay do Hoà Thượng Thích Thanh Từ cùng phật tử thập phương công đức xây dựng với quy mô rộng lớn, khang trang. Chính Điện được khởi công xây dựng vào năm 2002 trên nền ngôi chùa cũ thời Trần. Hiện nay phía cửa bước vào Chính Điện còn trưng bày dấu tích nền móng chùa thời Trần.
Chùa Lân là ngôi chùa lớn với quy mô kiến trúc nguy nga nhất trong hệ thống chùa tháp ở Yên Tử hiện nay đươc quy hoạch trên diện tích 125.198m2.
Chùa Giải Oan
Chùa Giải Oan được xây dựng dưới thời Pháp Loa – vị tổ thứ 2 của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chùa ngày nay được xây dựng trên nền móng cũ đã trải qua nhiều lần trùng tu.
Chùa Giải Oan (Ảnh sưu tầm)
Năm 2010, nhà thờ Tổ được khởi công xây dựng phía trái chùa Giải Oan. Kiến trúc hình chữ Nhất, bên trong bài trí thờ Tam Tổ Trúc Lâm, Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Tổ chùa. Điều đặc biệt bên cạnh chùa Giải Oan là điện thờ thân mẫu (Đức mẫu Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu – Trần Thị Thiều) và Quốc trương (Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Am Lò Rèn
Dấu tích Am Lò Rèn nằm ở phía bên trái tuyến đường đi bộ từ chùa Giải Oan lên khoảng 800m, là nơi rèn đúc các công cụ như quốc, xẻng, dao, kéo và các đồ dùng khác phục vụ cho công việc lao động sản xuất và đời sống của các Thiền sư, nhà chùa thuở ấy, như trồng hoa, luyện chế thuốc… Từ Am Lò Rèn đi lên, đường dốc cao dần khoảng 200m là đường Tùng cổ trên 700 năm tuổi được trồng ở hai bên đường đi, với số lượng còn 47 cây, thân to cao rắn chắc, nhuộm màu phong sương cùng thời gian, đứng sừng sững, trầm mặc giữa núi rừng hùng vĩ, cành lá sum xuê, xanh ngắt tỏa ra linh khí cõi thiền, rễ Tùng cổ kính ghi dấu thời gian đan xen để nâng bước chân du khách tiếp tục thượng sơn lễ Phật, vãng cảnh non thiêng. Theo thống kê hiện nay ở Yên Tử còn 242 cây Tùng có độ tuổi trên 700 năm.
Hòn Ngọc nằm phía trên đường Tùng, ở phía trước Vườn tháp Huệ Quang. Theo thuật phong thủy Vường tháp Huệ Quang tọa lạc ở đầu Rồng. Rồng nhả ngọc châu, chính là một quả núi tròn ở phía trước gọi là Hòn Ngọc. Vườn Tháp Hòn Ngọc ở độ cao hơn 400m (so với mực nước biển). Có các tháp, mộ của Tăng, Ni tu hành và viên tịch tại Yên Tử thời Hậu Lê đến đầu thời Nguyễn. Nơi đây có những cây Tùng cổ, tạo nên vẻ đẹp tôn kính trầm mặc. Vườn tháp Hòn Ngọc hiện còn 8 ngôi tháp và có 3 ngôi khá nguyên vẹn. Đó là tháp, mộ của các thiền sư: Giác Liễu, Diệu Tường, Thích An An tu ở chùa Hoa Yên vào thời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786)
Đường Tùng
Từ am Lò Rèn đi thêm chừng khoảng 200 mét, du khách sẽ cảm thấy ngỡ ngàng trước một đoạn đường dài chừng hơn gần 200m nhưng dọc hai bên toàn là những cây cổ thụ cao vút với những tán lá rất rộng. Đó chính là Đường tùng cổ với nhiều cây tùng có tới 700 năm tuổi.
Đường tùng tuổi hơn 700 năm, rễ tùng đan thành lối đi đưa du khách lên chùa (Ảnh sưu tầm)
Cây Tùng vốn được coi là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, khí phách hiên ngang và chính trực của bậc quân tử. Bước vào Đường tùng cổ du khách như bị mê hoặc bởi bóng tùng rợp mát, những gốc tùng to tới vài ba người ôm không hết cùng với rễ tùng mọc chồi cả lên mặt đất và bò sang cả hai bên đường.
Rừng Trúc
Không chỉ trồng Tùng mà Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông còn cho trồng cả Trúc dọc đường lên chùa Hoa Yên. Đường Tùng và đường Trúc là hai con đường song song nhau tạo thành hai lối đi lên và đi xuống. Phật tử có thể đi lên bên đường Tùng và đi xuống bên đường Trúc hoặc ngược lại tuỳ theo sở thích của mỗi người. Trúc mọc thành rừng, là sản phẩm rất độc đáo, đặc trưng của Yên Tử. Trúc có thể sống nơi khô cằn nhưng quanh năm xanh tốt tượng trưng cho ý chí người quân tử, mang sức sống dẻo dai, biểu tượng cho sự trường thọ, vẻ đẹp thanh bạch, tao nhã của tạo hoá. Phải chăng vì lẽ đó Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông lấy tên rừng trúc là Trúc Lâm làm tên gọi cho dòng thiền do ông sáng lập.
Vườn tháp Huệ Quang
Từ Hòn Ngọc, theo bậc đá hành hương lên núi, du khách tới Vườn tháp Huệ Quang (Tuệ Quang) tọa lạc trên thế đất hàm rồng thờ ngọc cốt của các thế hệ Thiền sư đạo cao đức trọng tu hành tại Hoa Yên qua các thời Trần, Lê…, nơi tụ vượng linh khí của long mạch Yên Tử khởi nguồn từ đỉnh non thiêng theo hướng Bắc Nam.
Vườn tháp Huệ Quang (Ảnh sưu tầm)
Ở vị trí trung tâm Vườn Tháp là lăng Quy Đức, trong lăng có Tháp Tổ Huệ Quang lưu giữ xá lợi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tháp do vua Trần Anh Tông và Đệ nhị Tổ Pháp Loa cùng các tăng môn Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử xây dựng vào năm Kỷ Dậu (1309), sau một năm Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết-bàn.
Chùa Hoa Yên
Chùa Hoa Yên vốn có tên là Vân Yên (mây khói), đặt với hàm ý: chùa tận trên núi cao quanh năm mây phủ, mây lững lờ trôi, trắng nhẹ như mây khói trên núi. Từ khi Vua Lê Thánh Tông lên vãn cảnh, thấy sắc hoa tươi đẹp nên cho đổi là chùa Hoa Yên.Chùa Hoa Yên ở độ cao 535m so với mực nước biển, là ngôi chùa chính của cả hệ thống chùa ở Yên Tử. Trên 700 năm trước chùa chỉ là một thảo am để Tổ Trần Nhân Tông giảng đạo.
Chùa Hoa Yên (Ảnh: RuudNguyen.com
Chùa được xây khang trang bắt đầu từ thời Đệ Nhị Tổ Pháp Loa. Sách xưa ghi lại: Chùa Hoa Yên ngoài tiền đường, thượng điện để thờ Phật, tả hữu còn có viện Phù Đồ, có lầu trống, lầu chuông, nhà dưỡng tăng, nhà khách nghỉ … tạo thành một quần thể kiến trúc to lớn. Cả ba vị Tổ Trúc Lâm đều đã trụ trị tại chùa này. Chùa Hoa Yên xưa quả là một kỳ quan với:
Tháp biếc trăm tầng cao ngất ngất
Lầu son thấy nóc rộng thênh thênh.
Chùa Một Mái
Chùa xưa vốn là động Thanh Long, tương truyền Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông lập am Ly Trần (thoát cõi trần) để làm nơi đọc sách, soạn kinh.
Chùa Một Mái (Ảnh sưu tầm)
Từ chùa Hoa Yên, đi về phía Đông khoảng 200 mét, qua sân tháp sau chùa, tới hàng tùng rễ bám vào núi đá, du khách bắt gặp một ngôi chùa nhỏ chênh vênh trên vách núi đó là chùa Một Mái.
Chùa xưa vốn là động Thanh Long, tương truyền Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông lập am Ly Trần (thoát cõi trần) để làm nơi đọc sách, soạn kinh. Sau khi đức Điều Ngự viên tịch, am xưa được dựng thành ngôi chùa Bồ Đà, một nửa mái chùa là vòm động, một nửa mái chùa phô ngoài trời nên chùa có tên là Bán Thiên, Bán Mái, ngày nay gọi là chùa Một Mái.
Chùa Vân Tiêu
Xưa kia, chùa chỉ là am thất nhỏ, gọi tên là Am Tử Tiêu. Sau khi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông hiển Phật, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa đã cho xây dựng nơi đây thành chùa lớn. Trải qua mấy trăm năm, chùa cũng đã qua nhiều lần trùng tu. Bia đá ghi chùa được trùng tu vào thời Lê do chúa Trịnh là chủ hưng công.
Chùa Vân Tiêu (Ảnh sưu tầm)
Chùa có kết cấu hình chữ Đinh với diện tích 121m2, kiến trúc bằng bê tông cốt thép giả gỗ, bố trí 3 gian, 2 chái, gồm Tiền Đường và Hậu Cung. Tiền Đường có bức Đại tự bằng chữ Hán “Vân Tiêu tự” (Chùa Vân Tiêu). Tượng thờ được bài trí theo kiến trúc chùa Việt và Phật giáo Đại Thừa.
Chùa Bảo Sái
Từ chùa Một Mái, tiếp tục lộ trình hành hương lên núi khoảng 500 mét, du khách sẽ đến chùa Bảo Sái. Ngôi chùa tọa lạc chênh vênh trên vách núi, ở độ cao 724 mét so với mặt nước biển, cửa hướng Tây Nam.
Chùa Bảo Sái nhìn từ cáp treo Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Ngôi chùa mang tên một Thiền sư từng tu hành ở đây, là đệ tử đầu tiên, thân tín của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Bảo Sái là người duy nhất được Ngài cho gọi về, ở bên và được nghe lời dạy cuối cùng của Ngài về triết lý căn bản của Nhà Phật trước khi Ngài viên tịch. Bảo Sái có công trong việc coi sóc ấn hành Đại Tạng Kinh triều Trần.
Thác Ngự Dội
Thác Ngự Dội, là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông thường ra tắm gội, sau đó Ngài lên Am Thiền Định kế bên để tọa thiền.
Am Thiền Định
Am Thiền Định nằm cách chùa Hoa Yên khoảng 500m về phía Tây. Ngày nay, dấu vết Am Thiền Định nằm bên cạnh con đường dẫn ra thác Ngự Dội và Thác Vàng, cách Thác Ngự Dội khoảng 20m, cách Thác Vàng 180m.
Thác Vàng
Thác Vàng bắt nguồn từ dãy núi Bạch Hổ tạo thành dòng chảy ánh kim gọi là Khê Hổ cùng với Thác Bạc tuôn chảy, vươn dài xuôi về phía Nam, ôm lấy thung lũng Giải Oan tạo thành một minh đường tụ thủy lưu giữ khí thiêng.
Tượng An Kỳ Sinh
Là tượng đá xanh nguyên khối, lại đứng giữa đất trời hàng nghìn năm, tượng An Kỳ Sinh đã bám đầy rong rêu. Thoạt nhìn, tượng như một khối đá tự nhiên, na ná giống dáng một vị sư nào đó khoác áo chùng thâm, hai tay lần tràng hạt, mặt hướng về phía tây như hướng về đất Phật.
Tượng An Kỳ Sinh (Ảnh: RuudNguyen.com)
Không ai biết “nhà sư” đó đứng như thế từ bao giờ, chỉ biết là rõ ràng đang nhìn ngó thanh thản giữa đất trời. Quan sát kỹ, thấy tượng đứng trên một khối đá hình nấm, dưới chân cố định bằng xi măng. Trước mặt tượng có xây một bệ thờ 3 bậc, cũng bằng xi măng. Bậc trên cùng của bệ thờ đặt một bát hương bằng đá, có nhiều họa tiết hoa văn rất cổ, hai bậc giữa và cuối cũng bám đầy rong rêu, bị bào mòn bởi thời gian.
Bên phải tượng còn có một bệ thờ nhỏ nữa, vẫn đắp bằng xi măng. Không ai biết đích xác đó là bệ thờ ai, chỉ nghe tương truyền là thờ một trong 2 vị đệ tử của đạo sĩ An Kỳ Sinh, từng theo ông học đạo trên vùng núi Yên Tử này. Bên trái tượng có một tấm biển bằng xi măng nữa,cắm trên một cột bê tông hình chữ nhật, khắc chữ lõm phết sơn vàng: “Tượng An Kỳ Sinh – di tích có giá trị, đã được xếp hạng bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm”.
Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông
Để tôn vinh những công đức của Đức Vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông đối với dân tộc và đạo pháp. Năm 2009, Ban trị sự giáo hội phật giáo tỉnh Quảng Ninh là chủ đầu tư đã tổ chức lễ khởi công đúc Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Tượng Phật Hoàng Trần Nhân trên đỉnh Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được hoàn thiện với chiều cao 12,6 m, nặng khoảng 139 tấn, tọa trên đài sen bằng bê-tông cốt thép ốp đá điêu khắc, thể hiện sự thoát tục của Phật hoàng. Bảo tượng đã thu hút khách thập phương tới tham quan, chiêm bái. Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được khánh thành vào tháng 12-2013.
Cổng trời Bia Phật
Do quá trình biến động địa chất, bãi đá Chùa Đồng trông như hàng nghìn “linh quy” (Rùa thiêng) chầu về đỉnh thiêng Yên Tử. Trong đá trầm tích biển có những con ốc, con sò biển hoá thạch và có những thực vật biển sống ở đây như cây sú, cây vẹt.
Bia Phật trên đường lên Chùa Đồng (Ảnh sưu tầm)
Phía trước dưới cổng trời có một phiến đá trầm tích cát sỏi biển, mỏng, cao hơn 5m, bề rộng khoảng 2m. Mặt đá chính diện giống như hình chiếc oản dâng lên cúng Phật. Phiến đá đó gọi là “Bia Phật”. Mặt trước của bia được tạc một hàng chữ Hán lớn theo chiều dọc, ba chữ trên nay đã mờ, chỉ còn lại một chữ cuối cùng khá rõ nét nằm gọn trong vòng tròn, đó là chữ “Phật”. Phía dưới chữ Phật có một hàng ngang gồm 04 chữ Hán “Tứ Tự Hồng Danh”.
Chùa Đồng
Chùa Đồng mới đã được các nghệ nhân nổi tiếng đúc đồng ở Ý Yên, Nam Định thực hiện. Và ngôi chùa được đúc theo nguyên mẫu của chùa Dâu Keo (Thuận Thành, Bắc Ninh). Chùa Đồng đúc nặng 70 tấn, dài 4,6m, rộng 3,6m và chiều cao từ cột nền tới mái là 3,35m.
Chùa Đồng trong mây (Ảnh: RuudNguyen.com)
Từ xưa cho đến nay thì chùa Đồng không những mang ý nghĩa kiến trúc mà lại có được một sự linh thiêng không ai có thể phủ nhận. Nét độc đáo của chùa Đồng khác biệt hoàn toàn với bất cứ ngôi chùa hay công trình nào được đúc trên thế giới. Độc đáo không chỉ về kiến trúc, điêu khắc với nét đẹp khỏe khoắn và pha vào đó là nét mềm mại bay bổng của người nghệ nhân gửi gắm vào đó.
Tây Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh)
Quần thể khu di tích nhà Trần ở Đông Triều ở phía Nam dãy núi Đông Triều thuộc địa bàn 4 xã: An Sinh, Bình Khê, Thủy An và Tràng An đã được Nhà nước đặc cách xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1962. Quy hoạch khu di tích nhà Trần bao gồm 14 điểm di tích: Đền An Sinh, lăng Tư Phúc, đền Thái, Thái Lăng, Mục Lăng, Ngải Sơn Lăng, Phụ Sơn Lăng, Nguyên Lăng, Đồng Hỷ Lăng, chùa Ngọc Thanh, chùa Ngọa Vân, chùa Tuyết, chùa Quỳnh Lâm và chùa Hồ Thiên.
Đông Triều có nghĩa là “Triều đình phía Đông”, vùng đất cổ Đông Triều trước đó có tên gọi An Sinh hay Yên Sinh. An Sinh vốn là quê gốc của nhà Trần trước khi dời đến Thái Bình và Nam Định. Đây là một trong những vùng ẩn tích chứa nhiều các di sản văn hóa đặc sắc của thời Trần với tính chất của khu di tích này là quê gốc nhà Trần so với các di tích Nhà Trần khác ở Thăng Long (Hà Nội), Long Hưng (Thái Bình), Thiên Trường (Nam Định).
Đền An Sinh
Đền An Sinh thuộc thôn Trại Lốc, xã An Sinh, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Đền là ngôi điện thờ An Sinh Vương Trần Liễu và 8 vị tiên đế triều Trần, được xây dựng trên một địa thế đẹp có non bình, thủy tụ, là trung tâm của cả Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều.
Đền An Sinh trong quần thể di tích Nhà Trần ở Đông Triều (Ảnh sưu tầm)
Theo thư tịch, bia kí và ghi chép của sử cũ, đất An Sinh xưa, Đông Triều nay là quê gốc của nhà Trần, sau dời xuống vùng Tức Mặc (Nam Định), Long Hưng (Thái Bình) sinh sống. Mùa Xuân năm Định Dậu 1237 vua đầu triều Trần là Thái Tông hoàng đế lấy vùng Yên Phụ (huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương), Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là thị xã Đông Triều, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) phong cho Trần Liễu làm đất thang mộc và phong làm An Sinh Vương, đời đời ở đất An Sinh trông coi mộ phần tổ tiên, lập điện thờ tông miếu nhà Trần.
Đền An Sinh được xây dựng vào thời Trần năm 1381 (thế kỷ thứ XIV), là nơi thờ ngũ vị Hoàng đế nhà Trần gồm Anh Tông hoàng đế, Minh Tông hoàng đế, Dụ Tông hoàng đế, Nghệ Tông hoàng đế và Khâm Minh Thánh vũ hiển đạo An Sinh hoàng đế (An Sinh Vương Trần Liễu). Đền được xây dựng tại làng An Sinh (Yên Sinh) nên được đặt tên theo dân làng. Vào thời Nguyễn, đền được xây dựng lại với kiến trúc gồm ba tòa nhà rộng 5 gian theo kiểu chữ “Tam”. Lúc này trong đền thờ không chỉ 5 vị mà là 8 vị hoàng đế triều Trần. Hai bên có các dãy nhà khách và dãy nhà cho người coi đền ở. Ngoài ra, bên cạnh đền có hai miếu nhỏ, một thờ Bà Hoàng và một thờ Đức Thánh Khổng Tử. Xung quanh có thành bao bọc rộng. Phía trước cửa có bia nhỏ đề “Hạ mã” và “Tiêu diệc”…
Di tích Đô Kiệu (Đỗ Kiệu)
Dốc dựng đứng và không có bậc, xưa kia kiệu của vua Trần khi đi theo lối này, đến đây Kiệu cũng đành dừng lại nên từ đó mới có tên là Dốc Đỗ Kiệu.
Khu di tích Đá Chồng
Từ chùa Ngoạ Vân – nơi Đức vua hoá Phật đi xuống núi, qua rừng trúc u tịch đậm chất thiền, tiếp tục đi hơn 2.000m nữa về phía Đông – Nam là gặp núi Đá Chồng. Núi Đá Chồng là một bãi đá với vẻ đẹp hoang sơ, không khí thoáng đãng trong lành. Ở đó không có sự ồn ào, náo nhiệt mà chỉ có mây với gió trời, thảm cỏ lơ thơ và đá là điểm nhấn quan trọng nhất với du khách trên đường hành hương về am Ngoạ Vân. Núi Đá Chồng, chùa Ba Bậc, am Ngoạ Vân… tất cả cùng tạo nên không gian văn hoá tiêu biểu, đặc sắc của quần thể Khu di tích nhà Trần tại quê gốc Đông Triều kéo dài sang Di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử.
Chùa Hồ Thiên
Chùa Hồ Thiênchính là một ngôi chùa cổ bị bỏ hoang từ lâu trên đỉnh núi Nước Vàng thuộc dãy Yên Tử. Tương truyền thì toàn bộ khu vực chùa đã biến thành rừng rậm nhưng còn nhiều bức tường gạch, hay có cả những tháp gạch, tượng đá và bia đá có khắc chữ Nho,… cho đến nay vẫn được gìn giữ.
Tháp bảy tầng ở chùa Hồ Thiên (Ảnh sưu tầm)
Am Ngọa Vân
Di tích Ngọa Vân am là một quần thể chùa tháp lớn được bố trí thành 3 lớp trên núi Bảo Đài. Lớp thấp nhất là 15 di tích dưới chân núi như: khu rừng già Tàn Lọng, Phủ Am Trà, Đô Kiệu, Thông Đàn, Đá Chồng, Ba Bậc…
Di tích Am Ngọa Vân cũ (Ảnh sưu tầm)
Trước đây, giới nghiên cứu lịch sử còn có ý kiến khác nhau về địa điểm của am Ngọa Vân. Sau này, theo tiến sĩ, nhà nghiên cứu khảo cổ học Nguyễn Văn Anh (Viện khảo cổ Việt Nam), mọi việc đã được xác định.
Kết quả điều tra nghiên cứu khảo cổ học khu vực Ngọa Vân cho thấy quần thể di tích chùa Ngọa Vân thuộc thôn Tây Sơn xã Bình Khê chính là nơi mà đức Trần Nhân Tông đã tu hành.
Khu vực Ngọa Vân bao gồm 6 cụm di tích, phân bố dọc từ phía Đông đến khu vực trung tâm sườn phía Nam của núi Ngọa Vân. Nơi đây lưu giữ các di tích, di vật của nhiều thời kỳ khác nhau và là bằng chứng khoa học để chứng minh đây chính là di tích Ngọa Vân, nơi đức hoàng Trần Nhân Tông đã hóa Phật.
600 năm trước, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đã từ bỏ kinh thành, tìm về chốn non thiêng Yên Tử, tạo dựng nên Thiền phái Trúc Lâm với sức sống vượt qua các vương triều, có ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần người Việt cho đến hôm nay. Ngọa Vân am nghĩa là “chùa nằm trên mây”. Điều đó đã mô tả đúng vị trí ở độ cao hơn 500m so với mực nước biển.
Chùa Ngọa Vân được xây mới kể từ khi tuyến cáp treo đi vào hoạt động (Ảnh sưu tầm)
Địa thế tựa vào núi, với mây trắng bao phủ quanh năm, phía dưới chân là dòng sông Cầm nên thơ uốn lượn, khách phương xa đến Ngọa Vân như lạc vào cõi thần tiên, đều cảm thấy tâm hồn thanh tịnh. Chùa Ngọa Vân, am Ngọa Vân, tháp Phật hoàng (nơi chứa một phần xá lị của Phật hoàng Trần Nhân Tông), bia đá và di tích khác đều được bảo quản, trùng tu, tôn tạo. Khách hành hương về Ngọa Vân am có thể đi theo đường bộ hoặc đi cáp treo lên gần chùa Ngọa Vân rồi đi bộ tiếp đoạn còn lại.
Hàng năm, vào ngày 9.1 âm lịch, lễ hội xuân Ngọa Vân được tổ chức để dâng hương tới đức Phật Trần Nhân Tông và đón du khách chiêm bái.
Tây Yên Tử (Bắc Giang)
Theo thống kê hiện nay, hệ thống Tây Yên Tử có hàng chục di tích, danh thắng có giá trị nổi bật. Đặc biệt phía sườn Tây Yên Tử còn có hàng loạt các công trình di tích liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử như: chùa Vĩnh Nghiêm, Am Vãi, Hồ Bấc, Bình Long, Suối Mỡ, khu sinh thái Đồng Thông… Mỗi ngôi chùa có những nét kiến trúc riêng và được xây dựng theo luật phong thủy, địa lý đẹp… ghi đậm dấu ấn Phật giáo thời Lý – Trần. Nổi bật là chùa Vĩnh Nghiêm, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, chùa là một trung tâm, là chốn tổ, có hệ thống tượng phật phong phú, linh thiêng, đặc biệt là kho mộc bản kinh Phật giá trị nổi bật.
Xem thêm: Các địa điểm du lịch ở Bắc Giang
Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm thuộc thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang được nhìn nhận và tôn vinh là một trong những Trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần mang đậm bản sắc dân tộc, là nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo Nhất tông trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã có trước đó và cũng là mô hình Giáo hội Phật giáo cho các tổ chức Giáo hội sau này.
Chùa tọa lạc ở nơi có vị thế cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp với thế đất con quy ẩm thực, được thư tịch và tư liệu cổ ghi nhận là một danh lam cổ tự đứng đầu thiên hạ. Trong tấm bia khắc dựng ngày 04 tháng 09 năm 1606 ghi việc trùng tu Vĩnh Nghiêm có mô tả cảnh quan chùa như sau: “Chùa Vĩnh Nghiêm là một danh lam thắng tích. Trước mặt bên phải thì có Xương Giang, Đức Giang, chẽ nhánh hội vào Lục đầu giang mênh mông uốn khúc đưa con thuyền từ bi cứu vớt chúng sinh.
Chùa Am Vãi
Cảnh đẹp ở đây sơn thủy hữu tình và được đánh giá là một điểm linh tụ của trời đất. Chùa có cái thế lưng tựa núi, mặt ngoảnh nhìn ra thung lũng rộng mênh mông, nơi có con sông Lục Nam uốn mình như dải lụa. Chùa nằm cách xa khu dân cư, ẩn mình trong một khu rừng thưa. Để lên được Chùa, du khách có thể đi bằng đường núi từ xã Tân Mộc hay có thể đi bằng đường thủy dọc theo các nhánh của con sông Lục Nam đến bến Nam Dương và tiếp tục leo núi vào chùa.
Và một con đường mới được mở mà ô tô có thể lên được đến sân chùa đó là đường từ xã Nam Dương. Theo đường này du khách đi chừng khoảng hơn 4 km trên sườn các dãy núi để đến chùa. Tuy đường lên chùa phải qua nhiều đèo dốc song bù lại phong cảnh ở đây rất nên thơ. Từ trên những đỉnh núi du khách có thể thả hồn ngắm cảnh núi non hùng vĩ của dãy Yên Tử và trải dài tầm mắt ngắm nhìn phía thung lũng, xa xa là những ngôi nhà thấp thoáng trong các đồi vải bạt ngàn, những cách đồng phì nhiêu được dòng sông Lục Nam bồi đắp…
Khu di tích – danh thắng Suối Mỡ
Suối Mỡ là tên một con suối bắt nguồn từ khu vực Đá Vách và Hồ Chuối chảy xuôi dòng theo núi Huyền Đinh – Yên Tử, tạo ra nhiều thác và những bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Dọc theo ven suối có đền Thượng, đền Trung, đền Hạ phụng thờ công chúa Quế Mỵ Nương con gái vua Hùng Định Vương, được phong là Thượng Ngàn Thánh Mẫu. Khu vực rừng suối nước Vàng nằm trên dãy Phật Sơn – Yên Tử, có thắng cảnh thiên nhiên đẹp, dòng suối độc đáo với 24 ngọn thác là một điểm tham quan kỳ thú. Quanh khu vực này có nhiều di tích lịch sử như: chùa Đồng Vành, đền Bản Phủ thờ vua Trần và các hoàng hậu, công chúa thời Trần…
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử
Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm ở vị trí sườn Tây núi Yên Tử, chiếm phần lớn diện tích rừng tự nhiên trong quần thể các dãy núi thuộc cánh cung Đông Triều. Đây là khu rừng tự nhiên tập trung lớn nhất của tỉnh Bắc Giang, nối liền với diện tích rừng thường xanh của tỉnh Quảng Ninh.
Đặc sản làm quà khi du lịch Yên Tử?
Măng trúc tươi Yên Tử
Măng trúc yên tử là loại măng đặc sản được vỡ hoang từ vùng núi Yên Tử – Quảng Ninh. Mỗi dịp mùa lễ hội Yên Tử, du khách lại được thưởng thức măng trúc vừa bùi, vừa thơm. Một đặc sản riêng của huyện Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Măng trúc được bày bán trên đường lên Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Cây trúc sống sâu trong rừng, trên những vách đá cheo leo hay thung lũng sâu thăm thẳm trong vùng núi Yên Tử, Quảng Ninh. Do chịu nhiều sương gió, giá rét lạnh buốt trên núi, nên thân cây đanh, lá quằn lại. Thế nhưng, phần măng lại khá mềm, ngọt, rất thích hợp chế biến các món ăn.
Vì thế, măng trúc được coi là món quà của thiên nhiên mang tặng cho đất thiêng Yên Tử. Tương truyền, ngày xưa, người dân trong vùng và các bậc tu sĩ trên núi Yên Tử dùng măng trúc làm món ăn chính. Qua thời gian, măng trúc dần trở thành món ăn nổi tiếng.
Rượu mơ Yên Tử
Trước kia, rượu mơ Yên Tử được bày bán tự phát, do người dân tự làm và tự tiêu thụ cho khách du lịch. Hiện nay, sau 2 năm triển khai dự án, ban lãnh đạo thi xã Uông Bí đã giao cho công ty bia Thăng Long chịu trách nhiệm sản xuất chính bằng công thức gia truyền.
Rượu Mơ Yên Tử trước kia chỉ được người dân nơi đây chưng cất để dùng cho các dịp lễ tết, cúng lễ trời đất, tổ tiên, cưới hỏi, hội hè và để chiêu đãi bạn hiền. Thế nhưng ngày nay nó đã được họ sản xuất ra thành những sản phẩm chất lượng, trở thành đặc sản không thể thiếu của người dân đất Than Quảng Ninh.
Canh gà rượu bâu
Đây là món ăn của người dân tộc Dao Thanh y ở quanh chân núi Yên Tử (xã Bằng Cả, Hoành Bồ). Canh gà nấu với rượu bâu, không chỉ có vị thơm ngọt của đặc sản gà Hoành Bồ, món ăn thơm mùi gừng, có vị thanh, rất dễ ăn.
Canh gà rượu bâu (Ảnh sưu tầm)
Rau dớn Yên Tử
Rau dớn thuộc họ dương xỉ. Rau mọc hoang dã, ưa đất ẩm, phân bố nhiều ở vùng núi rừng hay nơi bờ suối, bờ khe, dưới các tán rừng thấp có độ ẩm ướt cao. Đặc biệt, rau dớn chỉ thích hợp với môi trường hoang dã nên không thể trồng được. Loại rau này có giá trị sử dụng trong y học và ngày nay được chế biến thành nhiều món ăn ngon.
Rau dớn Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Có thể nói rau dớn là một sản vật độc đáo của núi rừng Yên Tử. Rau dớn có vị ngọt mát, hơi nhớt. Lá rau dớn xanh mượt. Rau dớn có quanh năm nhưng ngon nhất là vào mùa mưa. Khi đó, cây rau dớn ngậm đủ nước, ngọn cây mập, non tơ mỡ màng. Rau có thể chế biến thành những món ăn như rau dớn xào tỏi, nộm rau dớn. Rau dớn cũng là loại rau khá “chân phương”, ngon nhất khi chế biến không cầu kỳ, cũng không ưa khi chế biến kèm với thịt, cá.
Chè lam Yên Tử
Chè lam là một thức quà quê dân dã, không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền dân tộc. Trong tiết trời se lạnh đầu xuân, cắn miếng chè lam dẻo thơm, bùi béo của lạc, cay the the của gừng, ngọt dịu của mật mía và nhâm nhi cùng trà nóng luôn là lựa chọn của nhiều gia đình trong khoảnh khắc quây quần bên gia đình dịp đầu xuân năm mới.
Chè lam Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Trầu một lá Yên Tử
Cây trầu một lá này chỉ có ở Yên Tử Quảng Ninh, nếu ai đã từng đi lên yên tử thì hãy mua lấy một nắm trầu một lá về mà ngâm rượu nhiều lần dùng để bôi ngoài da.
Trầu một lá, vị thuốc quý của núi rừng Yên Tử (Ảnh sưu tầm)
Ba loại cây lá thuốc lấy từ núi Yên Tử là địa liền, gừng gió và trầu 1 lá ngâm với rượu thành loại dầu xoa. Dầu này dùng để xoa ngoài da chữa các chứng đau xương, đau khớp
Lịch trình du lịch Yên Tử
Lịch trình đi Yên Tử
Thời gian hợp lý là một ngày một đêm. Đi vào dịp lễ hội sẽ đông (nhất là những ngày tháng 1), còn những ngày khác Yên Tử vắng vẻ, yên tĩnh, không khí trong lành rất sảng khoái.
Ngày 1: Hà Nội – Tp Uông Bí
Sáng xuất phát từ Hà Nội đi Tp Uông Bí. Nếu đi bằng ô tô cá nhân các bạn cứ đi theo đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng cho nhanh mất tầm 3 tiếng. Hoặc đi theo đường QL 18 cũ hoặc QL 5 cũ
Tranh thủ đi chơi ở Tuần Châu (Hạ Long) nếu bạn đi đường cao tốc HN- HP hoặc có thể ghé qua Chùa Ba Vàng (còn gọi là Bảo Quang Tự 寶光寺) là một ngôi chùa tọa lạc trên lưng chừng núi Thành Đẳng, thuộc Phường Quang Trung, Thành phố Uông Bí. Tối nghỉ ngơi tại Tp Uông Bí để tiện ăn uống hoặc đi thẳng vào trong chân núi Yên Tử ngủ lại.
Ngày 2: Yên Tử – Uông Bí – Hà Nội
Vật dụng cần mang theo
Tiền: Bạn mang theo số tiền đủ dùng, tránh bị kẻ gian móc túi những ngày đông.
Giày: Bạn không nên đi giày công sở, hãy đi giày thể thao (có thể là bata) hoặc giày leo núi thì càng tốt. Đường leo bậc thang đá, có đoạn leo đường mòn và du khách có thể gửi giày, thuê dép ở chân núi.
Ba lô: Vì chỉ đi trong ngày nên bạn mang theo một ba lô nhỏ, gọn nhẹ để đựng ít đồ ăn, nước uống.
Quần áo: Khi đi chỉ cần bạn mặc trang phục gọn nhẹ, đủ ấm, nên mang áo khoác nhẹ để khi leo có thể buộc áo quanh người hoặc cho vào ba lô.
Nước: Bạn nên mua trước 2 chai 500 ml hoặc một chai 1,5 lít mang theo uống dọc đường, vì nước trên núi bán đắt gấp nhiều lần.
Đồ ăn: Một số loại đồ ăn bạn có thể mang để ăn trưa như bánh mì sữa, bánh mì giò, xôi… Ngoài ra, bạn có thể ăn trưa trên núi với xúc xích, ngô, khoai, phở… tuy nhiên giá cao hơn bình thường.
Gậy: Nếu bạn đi bộ nên mua một chiếc gậy tre dưới chân núi giá 5.000 đồng. Có cây gậy này bạn leo đỡ mất sức, đặc biệt khi xuống sẽ không bị đau khớp gối.
Bạn có thể khởi hành leo Yên Tử thật sớm, đi sớm vừa mát mẻ vừa kịp thời gian để xuống núi. Nói chung với sức khỏe trung bình, chắc mất khoảng 5-6 tiếng để lên tới đỉnh. Chiều xuống nếu mỏi mệt có thể đi cáp treo.
Xuống đến chân núi nghỉ ngơi rồi lên xe quay trở lại Hà Nội.
Tóm tắt các điểm tham quan ở Yên Tử
- Chùa Trình/ đền Trình: nơi ghé vào trước khi lên Yên Tử
- Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử: nơi để tu học của các nhà sư và cư sĩ. Giống như trường đại học, đây không phải nơi thờ cúng nhưng bạn có thể ghé vào tham quan trước khi leo núi.
- Cầu Giải Oan, chùa Giải Oan: nơi thờ các cung nữ, phi tần của vua Trần Nhân Tông. Vì quá yêu vua, muốn lên núi cầu xin vua trở lại triều đình không được, các bà đằm mình xuống suối tự vẫn.
- Tháp Huệ Quang: nơi cất giữ một phần xá lị của vua Trần Nhân Tông, phần còn lại được thờ ở khu đền Trần tại Nam Định.
- Chùa Hoa Yên: chùa trung tâm, lớn nhất khu di tích Yên Tử. Khi xưa chùa Hoa Yên là nơi Phật Hoàng giảng đạo.
- Chùa Một Mái: nơi thờ Phật Quán Thế Âm, ở đây có khe nước uống rất mát.
- Chùa Bảo Sái: nơi Phật Hoàng nhập niết bàn
- Chùa Vân Tiêu: nơi tu luyện của các vị tăng sỹ
- An Kỳ Sinh và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông: bức tượng của một vị tu sĩ hóa đá và bức tượng Phật Hoàng bằng đồng rất lớn.
- Chùa Đồng: ngôi chùa cao nhất đỉnh núi
Lịch trình tham quan: Thiền viện – cầu Giải Oan – chùa Giải Oan – chùa Hoa Yên – chùa Một Mái – chùa Bảo Sái – An Kỳ Sinh và tượng Phật Hoàng – chùa Đồng – An Kỳ Sinh – chùa Bảo Sái (xuống cáp treo) – chùa Hoa Yên – chùa Giải Oan – xuống lại bãi gửi xe.
Lịch trình đi Tây Yên Tử
Lịch trình này dành cho các bạn ưa khám phá, thích trekking nên khá vất vả. Các bạn nên tránh đi vào mùa lễ nhé. Cần chuẩn bị sẵn thực phẩm, nước uống và lều trại cho 1 ngày 1 đêm.
Ngày 1: Hà Nội – Am Ngọa Vân
Từ Hà Nội, đi đến Đông Triều. Như phía trên đá nói, các bạn có thể lựa chọn đường Bắc Ninh – QL18, đường Hải Dương – Chí Linh hay đường nào quen thuộc với các bạn.
Đến thị xã Đông Triều ghé vào Đền An Sinh nhé, sau khi vào đền xong thì đi đến Hồ Bến Châu và gửi xe, bắt đầu hành trình chinh phục Tây Yên Tử, về với am Ngọa Vân.
Sau khi được đưa qua bên kia hồ, đi theo đường mòn để lên am Ngọa Vân, trước đó các bạn sẽ đi qua Bãi Đá Chồng. Về cơ bản, đường này các bạn có thể nhìn thấy rõ trên Google Maps, tuy nhiên nếu có người biết đường truóc rồi đi cùng thì vẫn tốt hơn. Hoặc không cũng chẳng sao, đằng nào chả mang theo lều trại.
Vừa leo vừa chơi chắc khoảng chiều tối lên tới Am Ngọa Vân, xin ngủ nhờ tại chùa hoặc nếu không có đủ chỗ thì tìm một bãi trống trong sân chùa dựng lều là oke. Ngày trước có mỗi cái am cũ, chứ giờ chùa mới xây to rồi thì chắc không thiếu chỗ trống đâu
Ngày 2: Am Ngọa Vân – Trại Lốc
Phương án 1
Hôm sau ngủ dậy thì từ Am Ngọa Vân đi xuống lại dưới núi theo đường Trại Lốc (chính là đường làm cáp treo hiện nay), đường này ngày xưa khó chứ giờ làm bậc đá hết rồi nên cứ đi xuống thôi. Đi theo cách này thì xuống đến Trại Lốc lại phải tìm cách về Bến Châu để lấy xe, hơi khoai :))
Phương án 2: Quay lại bằng đường cũ hôm qua
Sau khi xuống đến nơi, nếu còn nhiều thời gian trên đường về có thể ghé qua khu Côn Sơn – Kiếp Bạc ở Hải Dương trước khi về lại Hà Nội
Một số lưu ý khi du lịch Yên Tử
- Nếu có ý định leo núi, nên chuẩn bị loại giầy phù hợp. Các loại giày trekking và có đế chống trơn trượt sẽ tốt hơn. Nếu không có thể sử dụng dép tổ ong.
- Mang theo áo gió mỏng nhẹ nếu đi vào mùa hè, lên núi cao vẫn luôn lạnh nhé. Vào mùa đông thì vẫn cần mang đủ áo ấm, dừng lại một tí là lạnh run ngay.
- Mang theo lượng nước đủ dùng nếu xác định leo bộ.
- Đi vào dịp lễ hội thì cần phải cẩn thận, Yên Tử với Chùa Hương hở ra cái là móc túi với rạch túi. Tốt nhất nếu mang túi đi thì mang túi đểu thôi, tiền nong thì để chỗ khác :))
- Đừng mua mấy cái loại cỏ cây bán trên đấy nếu bạn không biết là gì, các khu du lịch thường bán linh tinh nhiều thứ mà chẳng cách nào kiểm chứng được nguồn gốc. Mang về đến nhà mà biết bị lừa rồi cũng chẳng biết kêu ai.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Quảng Ninh
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Bình Liêu
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Cô Tô
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Quan Lạn
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Móng Cái
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch vịnh Hạ Long
Discussion about this post